- NGHIÊN CỨU
VỀ
- THIỀN
UYỂN TẬP ANH
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
PHẦN
I
Nghiên Cứu
Về Thiền Uyển Tập Anh
Trong
công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta, vấn đề khai thác
những tư liệu phản ảnh quan điểm và lập trường đấu
tranh của dân tộc ta là cần thiết. Và việc đó càng trở nên
cần thiết và quan trọng hơn nữa, khi ta đi vào lĩnh vực
nghiên cứu cổ sử và trung sử. Bởi vì về giai đoạn đó,
các chính sử ta thường chép rất sơ sài, thậm chí chép
lại những gì do những ngòi bút thù địch với dân tộc và
chống lại nước ta viết ra, đưa đến tình trạng một bộ
chính sử ta đã công nhiên ngợi ca sự nghiệp của một tên
xâm lược đầu sỏ đầy tội ác đối với nước ta như Cao
Biền.
Trong
số những tư liệu hiện còn loại đấy, ta chỉ có vỏn
vẹn ba tác phẩm đó là Việt điện u linh tập, Lĩnh nam trích
quái truyện và Thiền uyển tập anh. Về hai tác
phẩm đầu, trước đây chúng đã được phiên dịch và in
lại nguyên văn, dẫu rằng những công tác ấy chưa đạt được
tiêu chuẩn khoa học đáng muốn. Còn lại Thiền uyển tập
anh thì kể từ ngày Trần văn Giáp phát hiện và giới thiệu
nó với học giới trong bài Phật giáo ở Việt nam từ
khởi nguyên đến thế kỷ thứ 13 (Trần văn Giáp, Le
Bouddhisme en Annam dès origines aux XIIIè siècle, BEFEO XXXII (1932)
191-268), tính chất quan trọng của tác phẩm này không những
đối với môn cổ sử và lịch sử giải phóng dân tộc, mà
còn đối với các môn học khác từ văn học nghệ thuật cho
đến khoa học kỹ thuật đã được nhiều người chú ý
tới.
Như
một bộ sử chuyên môn không thuộc loại chính sử về lịch
sử Phật giáo Thiền tôn Việt nam, nó có thể ở vào địa
vị phản ảnh phần nào quan điểm và lập trường đấu
tranh của dân tộc cùng tình tự và ý chí của họ trong liên
hệ với lịch sử vận động giải phóng và chống ngoại xâm
mà điển hình nhất là những truyện Ðịnh Không và La Quí cùng
các truyện Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh. Những
truyện Ðịnh Không và La Quí kể lại những mẩu tin rất ly
kỳ, nhưng cũng rất thực tế trong công tác tuyên truyền
vận động độc lập của những người yêu nước sống
rải rác trong các mạng lưới của làng mạc Việt nam dưới
những hình thức sấm vĩ, tín ngưỡng chùa chiền. Chúng
vạch cho thấy họ đã vận động cho cuộc chiến đấu ấy
như thế nào, đã lãnh đạo cuộc vận động đó với một lý
thuyết gì. Các truyện Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh
đã diễn tả một cách khá rõ rệt tính chất dân tộc của
những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm do dân ta thực hiện
trong những ngày đầu của thuở mới lập quốc qua sự tham
dự tích cực và trực tiếp của hầu hết mọi tầng lớp người.
Nhưng
Thiền uyển tập anh không chỉ là một tác phẩm phản
ảnh quan điểm và thái độ quần chúng trong một cách thể nào
đó. Nó còn là một cuốn sử giúp ta nhiều tài liệu nghiên
cứu về cổ sử Việt nam từ thế kỷ thứ 6 cho đến thế
kỷ thứ 13. Thực vậy, ngày nay nó chứa đựng nhiều chi
tiết, nhiều tên người, tên đất, nhiều sự việc mà các
chính sử có quyển ghi, có quyển không ghi, thậm chí, đôi
khi không có quyển nào ghi cả. Chẳng hạn, cái tên Khúc Lãm
xuất hiện trong truyện La Quí. Lãm chắc chắn là một trong
những người lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời kỳ manh nha của nó với các vị khác như Khúc Hạo, Khúc
Thừa Dụ, Khúc Thừa Mỹ v.v…nhưng ngày nay không thấy sử sách
nào khác chép tới. Hay Cương giáp, nơi đóng quân của tên tướng
Hầu Nhân Bảo trong trận đọ sức đầu tiên giữa dân tộc
ta với quân xâm lược Tống, mà các chính sử không thấy đâu
ghi cả. Trong liên hệ này, ta có thể nói rằng đối với môn
địa lý học lịch sử, Thiền uyển tập anh có một
cống hiến thật đặc sắc, bởi vì nó là một tác phẩm đời
Trần duy nhất còn lại chứa đựng nhiều tên ấp, tên làng,
tên quận, tên phủ và tên châu đời Lý cũng như đời Trần
hơn bất cứ tác phẩm nào khác, kể cả bộ chính sử Ðại
Việt sử lược. Khai thác kho tàng những tên đất đấy và xác
định lại vị trí của chúng, nếu hoàn thành, có thể nói
ta đã vẽ lại được một phần bản đồ địa lý chi tiết
của nước ta vào thời Lý một cách cụ thể, nhờ vào tên
của các ngôi chùa gắn liền với các tên đất ấy.
Không
những thế, do chính sách văn hóa nô dịch thô bạo và thâm
độc của bọn xâm lược Minh hồi đầu thế kỷ thứ 15,
tất cả những sách vở nứơc ta trước thế kỷ đó hầu
hết đều bị chúng hủy hoại, dẫn cuối cùng đến tình
trạng là, một nền văn học rực rỡ và phong phú như nền văn
học đời Lý đã không còn để lại vết tích nào, nếu ta
không nói đến Thiền uyển tập anh và một số bi ký
ở các chùa hiện đã phát hiện được. Thực vậy, ngay từ
những năm 1433, sau khi đã thu hồi lại độc lập và ổn định
được đời sống của nhân dân, những nỗ lực thu thập thi
văn các đời Lý, Trần của những học giả đời Lê chỉ
chủ yếu ghi l5I được các tác giả đời Trần mà thôi, còn
tuyệt đại bộ phận các tác giả đời Lý thì hoàn toàn
vắng bóng. Sự trạng ấy, ta chỉ cần dở Việt âm thi
tập của Phan Phù Tiên, Quần hiền phủ tập của Hoàng
Tuỵ Phu cùng Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Ðức
Nhan thì cũng đủ thấy. Việt âm thi tập hoàn thành sau
khi thu hồi độc lập khoảng 6 năm, tức vào năm 1433, đã
tuyệt nhiên không ghi lại một tác gia đời Lý nào hết. Quần
hiền phủ tập viết xong khoảng năm 1457 cũng vậy. Ðến Tinh
tuyển chư gia luật thi của Dương Ðức Nhan đỗ tiến sĩ
khoa 1463 với một nhan đề quyển sách như thế, ta không cần
phải nói là, không có một tác giả đời Lý nào được kể
tới. Cả mấy trăm năm văn học của một dân tộc đã bị
bỏ quên. Sự trạng ấy ta phải đợi đến Lê Quí Ðôn mới
được chấn chỉnh lại trong bộ Toàn Việt thi lục và
Kiến văn tiểu lục của ông. Nhưng Lê Quí Ðôn làm
được như vậy chủ yếu là nhờ vào Thiền uyển tập anh,
mà ông đã biết khai thác một cách có phương pháp và hệ
thống. Rõ ràng, đối với lịch sử văn học dân tộc ta,
Thiền uyển tập anh đóng một vai trò hết sức quan trọng và
thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm lịch sử văn
học dân tộc phai mờ tiêu tán đi không phải ít.
Từ
lĩnh vực văn học bước sang lĩnh vực tư tưởng triết lý
không xa. Cho nên nếu Thiền uyển tập anh đóng một vai trò
quan trọng như thế nào đối với lịch sử văn học dân
tộc, thì nó cũng đóng một vai trò tương tự trong lịch sử
tư tưởng triết lý. Và vai trò đấy, thực tế, có một
tầm quan trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất
là một bộ sử chuyên môn về lịch sử Phật giáo Thiền tôn
Việt nam. Mà Phật giáo Thiền tôn Việt nam vào những mấy trăm
năm đấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chỉ đạo thì nó
cũng ở vào địa vị của một hệ tư tửơng chiếm ưu thế
trong giai đoạn lịch sử đó. Trong giai đoạn ấy, dân tộc
ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đưa cả dân
tộc lên đỉnh cao của thời đại, đứng vào hàng những đội
quân tiên phong của loài người chống xâm lược và áp bức,
dân tộc ta đã xây dựng được một nhà nước vì dân, một
nền kinh tế vững mạnh và một nền khoa học kỹ thuật
tiến bộ nhất định. Làm nên được những kỳ tích như
thế trong một tình huống như tình huống của nứơc ta sau
khi Ngô Quyền đánh bại quân xâm lược Nam hán và Ðinh Tiên
Hoàng thống nhất tổ quốc về một mối thì phải kể là
những kỳ tích vô tiền khoáng hậu, hiếm có trong lịch sử
loài người. Hệ tư tưởng chủ đạo nào đã hướng dẫn
họ trên bước đường đưa cả dân tộc đi tới vinh quang đó?
Ðiều này rõ rệt đòi hỏi ta phải giải quyết vấn đề lý
luận dân tộc nào đã giúp nhân dân ta đoàn kết một lòng
một dạ với nhau, cùng nhau chống giặc ngoại xâm và xây
dựng đất nước. Nó đòi hỏi ta phải đặt thành vấn đề
hệ tư tưởng chủ đạo của dân tộc ta vào thời Ðinh, Lê,
Lý, Trần và bắt buộc ta phải nghiên cứu nghiêm túc, nhằm
rút tỉa những tinh hoa của truyền thống, đóng góp vào
việc xây dựng con người mới Việt nam hôm nay. Ðể giải
quyết những vấn đề đấy, công tác nghiên cứu lịch sử tư
tưởng Việt nam tất không thể nào không tìm đến Thiền
uyển tập anh. Có thể nói, nó là nơi tập đại thành những
luồng tư tưởng chủ yếu của dân tộc từ thời nhà Trần
trở về trước.
Ðây
là mấu chốt của vấn đề nghiên cứu hệ tư tưởng chủ
đạo thời Ðinh, Lê, Lý, Trần, và trước đó. Phân tích và
nắm được những điểm chủ yếu của vấn đề ấy, ta có
thể nói là đã giải quyết được nó về mặt cơ bản.
Trong chiều hướng cung cấp tư liệu và mẫ hình cho công tác
phân tích đấy, Thiền uyển tập anh với tiểu sử của 68
Thiền sư hầu hết đều có ghi thành phần gia đình, giai
cấp và sống trải dài trên một khoảng thời gian gần 700 năm,
rõ ràng có thể giúp xác định tư tưởng Phật giáo Thiền tôn
Việt nam, mà họ là những đại diện chân chính và được
thừa nhận. Trong viễn tượng đấy, vai trò của Thiền uyển
tập anh trở nên hết sức trọng yếu cho những ai muốn nghiên
cứu lịch sử tư tưởng dân tộc và hệ tư tưởng chủ đạo
của Việt nam từ thời Trần trở về trước. Ðương nhiên,
với số lượng 68 người có tiểu sử, nó chưa cung cấp cho
ta một mẫu xác suất tốt nhất đáng muốn. Nhưng trong tình
trạng sử liệu ngày nay, ta không mong gì hơn. Qua họ, hệ tư
tưởng họ đại biểu, có thể xác định một cách khá đúng
đắn và cụ thể. Từ đó, vấn đề bản chất củaPhật giáo
Thiền tôn Việt nam tất nhiên phải bộc lộ.
Ngoài
ra, Thiền uyển tập anh còn cần thiết cho những khoa học khác
từ kinh tế học, dân tộc học, xã hội học v.v…cho đến
mỹ nghệ và kỹ thuật. Chẳng hạn, nghiên cứu về tập
tục và đời sống của dân ta ở những vùng biên giới, ta có
những truyện Ma Ha, Giới Không v.v…ghi lại lối sống, lối
tín ngưỡng của họ. Hay tìm hiểu về lai nguyên của nghề
in tại Việt nam, ta có truyện Tín Học xác định thành phần
gia đình Học là "đời đời làm nghề in kinh". Hay
khảo sát về thành phần xã hội thời Lý và hệ thống cấu
trúc của nó, ta có truyện nhiều Thiền sư ghi lại thành
phần gia đình của họ v.v…
Thiền
uyển tập anh như vậy chứa đựng nhiều tài liệu phong phú
và đặc sắc cho công tác nghiên cứu lịch sử cũng như
nhiều khoa học kỹ thuật và mỹ thuật khác. Dẫu thế, cho
đến nay chưa có một bản dịch nghiêm chỉnh và đầy đủ nào
về nó xuất hiện, nên những người nghiên cứu, dù nhắc
tới nó nhiều, ít ai có dịp đọc toàn bộ bản văn đó.
Bản dịch hiện nay của chúng tôi là nhằm cung ứng cho
những người nghiên cứu ấy một bản dịch như thế. Trước
đây, một số người cũng có ý muốn dịch nó và họ quả
đã dịch, hay đúng hơn phỏng dịch một phần nào hay toàn
bộ nó và xuất bản dưới những tên khác nhau {Thanh Từ,
Thiền sư Việt nam, Tu viện Chân không xuất bản, Saigon, 1973,
tr11-195 phỏng dịch đủ Thiền sư cả hai phái Pháp vân và
Kiến sơ; Khánh Vân Nguyễn Thuỵ Hòa, Tiểu truyện các Thiền
sư VN (phái Vô Ngôn Thông), Saigon 1974, chỉ dịch lướt phần
đầu của phái Võ Ngôn Thông. Ông Nguyễn Ðổng Chi có cho tôi
hay vào khoảng 1938 Nguyễn Trọng Thuật có dịch Thiền uyển
tập anh đăng trong báo Ðuốc Tuệ, nhưng cũng chỉ dịch lướt.
Tôi chưa có dịp thấy bản dịch ấy}. Nhưng tất cả đều
chưa đạt yêu cầu. Tình trạng này xuất phát từ hai nguyên
cớ chính, đấy là : 1, Họ chưa nắm vững lịch sử truyền
bản của bản văn, nên đã không chọn được một truyền
bản chính xác để làm đề bản cho công tác hiệu thù và
phiên dịch, và 2, Họ chưa phân tích kỹ nội dung bản văn, nên
tới những đoạn khó, họ hoặc đa số lướt qua không
dịch, hoặc nếu bắt buộc quá mà phải dịch, họ thường
phạm phải những sai lầm. Ðể khắc phục tình trạng sai trái
vừa nêu, bản dịch hiện nay bao gồm có phần nghiên cứu
về tự thân bản văn và phần chú thích bản văn đó. Phần
nghiên cứu về tự thân văn bản nhằm giải quyết những
vấn đề truyền bản của bản văn, tên gọi nó, soạn niên
và tác giả nó cùng vấn đề sử liệu nó dùng và vấn đề
hiệu bản cho bản dịch của chúng tôi. Phần chú thích, vì
nhằm cung ứng tài liệu cho những người nghiên cứu ở
nhiều bộ môn khác nhau, chúng tôi đã cố gắng chú thích
rất kỹ và nói rõ nguyên lai những chú thích cho tiện việc
tra cứu.
****^****
Mục
Lục | 1 | 2 |
3 | 4 | 5 |
6 | 7 | 8a |
8b | 8c |
8d | 9
|10
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành Đạo hữu Tâm Kiến Chánh đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-02-2002