|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Ðặc
tướng vô thường
Thấy
những thọ cảm đúng như nó thật sự là vậy
Bản
chất vô thường của tưởng uẩn
Bản
chất vô thường của hành uẩn
Bản
chất vô thường của thức uẩn
Mười
một phương cách phân tách sắc pháp
Quán
chiếu về Netaṁ mama và Anicca
Các
vị Tu Ðà Huờn được dạy về đặc tướng vô ngã
Mười
một phương cách quán niệm
Quán
chiếu các sắc pháp bên trong và bên ngoài
Quán
chiếu các sắc pháp thô kịch và vi tế
Quán
chiếu theo đặc tính thấp hèn hay cao thượng
Quán
chiếu theo đặc tính xa và gần
-VI-
PHÂN
TÁCH ÐẶC TÁNH VÔ THƯỜNG
-ooOoo-
Vedanā
niccā vā aniccā vāti. Aniccā bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vā
taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma
dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso
me attāti. No hetaṁ bhante.
Ðức
Thế Tôn hỏi: "Thọ là thường còn hay vô thường?" -- "Bạch
Ngài, là vô thường," Nhóm Năm Vị tỳ khưu trả lời.
Trong
những chương trước chúng ta đã bàn thảo khá dong dài về
thọ cảm nhưng theo bài kinh nầy, đây là phần kế tiếp,
nên chúng ta sẽ giải thích thêm một ít.
Có
ba loại thọ: thọ lạc hay hạnh phúc; thọ khổ hay đau khổ,
bất toại nguyện; thọ vô ký, không hạnh phúc cũng không
đau khổ. Người thế gian thông thường xem tất cả ba loại
thọ ấy là chính mình, là tự ngã, thể chất sống, tồn
tại lâu dài và thường còn. Những hình thức dính mắc ấy
được gọi là chấp thủ nivāsī attā và chấp thủ vedaka
attā.
Chấp
thủ nivāsī attā là tin tưởng, chấp vào một thực thể thường
còn, liên tục tồn tại, hay tự ngã. Người đời thường
tin rằng có một thực thể sống, một tự ngã thường còn
trong cơ thể vật chất từ lúc được thọ thai cho đến khi
chết và cũng có người tin rằng sau khi chết cái tự ngã
ấy vẫn còn tồn tại. Ðó là chấp thủ nivāsī attā. Họ
tin rằng chính cái thực thể thường còn trong cơ thể ấy
cảm nhận những thọ lạc hay thọ khổ; lúc nầy tự ngã
ấy cảm nghe thỏa thích trong tâm và trong thân, lúc khác cũng
tự ngã ấy có những thọ cảm phiền muộn, không thoải mái.
Như vậy họ tin rằng những cảm thọ ấy trường tồn, bền
vững lâu dài. Trong thực tế, khi có thọ lạc thì không có
thọ khổ hay thọ vô ký; khi có thọ khổ thì không có thọ
lạc hay thọ vô ký. Cùng thế ấy, khi có thọ vô ký thì không
có thọ lạc hay thọ khổ. Không có cảm thọ nào tồn tại
mãi mãi. Dầu thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký, những cảm
thọ ấy, phát sanh tùy hợp theo những điều kiện, sanh khởi
tùy duyên, và chỉ tồn tại trong khoảnh khắc rồi tan biến.
Một
người chưa được rèn luyện đầy đủ không thể theo dõi
vào lúc nó khởi sanh, có cảm tưởng rằng ba thọ cảm ấy
hiện hữu cùng một lúc. Như vậy, trong khi có những thọ
cảm đau nhức trong cơ thể mà nghe những tin vui, ta lấy làm
thỏa thích. Hoặc khi đang thỏa thích với những cảm thọ
thoải mái dễ chịu ở thân, tình cờ ta nghĩ nhớ đến một
diễn biến bất hạnh, và cảm nghe bực mình phiền muộn.
Trong những trường hợp tương tợ, thông thường ta tin rằng
cả hai, thọ lạc và thọ khổ, cùng được cảm nhận vào
một lúc.
Ðó
là bởi vì ta thiếu khả năng phân biệt rành mạch hai thọ
cảm, hay hai loại tâm liên tục tiếp nối. Trong thực tế,
mỗi loại thọ phát sanh và chấm dứt rồi một loại thọ
khác mới khởi phát.
Như
vậy trong khi vị hành giả đang chuyên cần chú niệm những
hiện tượng phồng xẹp mà ghi nhận có sự đau nhức khởi
sanh ở một nơi nào trong thân thì phải cẩn trọng gom tâm
vào nơi ấy và liên tục niệm "đau, đau". Nếu tâm định
của hành giả đủ vững mạnh, cơn đau nhức khó chịu sẽ
dần dần suy giảm khi hành giả niệm và có thể tan biến
luôn. Ðối với vài người, cơn đau hoàn toàn và mau chóng
tiêu diệt như có ai lấy tay bóc cái đau vứt đi. Khi không
còn thọ lạc hay thọ khổ để niệm, hành giả liền quay
trở về ghi nhận những hiện tượng vô ký trong di động
phồng xẹp của bụng. Ðó là niệm thọ vô ký. Trong khi niệm
thọ vô ký như thế, nếu có thọ lạc phát sanh, hành giả
phải hướng tâm về cảm thọ ấy và ghi nhận như thường
lệ. Cùng thế ấy, nếu có thọ khổ phát sanh, phải hướng
tâm về chú niệm. Ghi nhận những cảm thọ, lạc, khổ và
vô ký như thế ngay vào lúc nó khởi sanh, hành giả tự mình
xác nhận rằng nó không tồn tại lâu dài. Ðó là phân tách
và biện giải, phân biện mỗi loại thọ khi nó phát sanh,
trong chuỗi dài những khoảnh khắc hiện tại, hay "hiện tại
liên tục".
Vị
hành giả đã tiến đến tuệ sanh diệt và tuệ diệt (udayabbaya
và bhaṅga ñāṇa) nhận thấy thọ cảm tan biến và chấm
dứt từng đoạn, từ chút, từ chút. Những hiện tượng phồng
xẹp thông thường cũng hoại diệt từng đoạn, từ chút,
từ chút. Khi thọ lạc hay thọ khổ phát hiện, nó phát hiện
riêng biệt, hết loại thọ nầy đến loại kia chớ không
phải một loạt những hiện tượng liên tục tiếp nối trong
một tiến trình. Cùng thế ấy khi thọ khổ phát sanh với
thọ vô ký, hai loại phải được ghi nhận như hai loại thọ
riêng biệt. Vị hành giả quán niệm mỗi cảm thọ bằng cách
ấy sẽ hiểu biết rằng mỗi thọ cảm phát sanh và tức khắc
hoại diệt. Ðiều nầy chỉ rõ rằng thọ không tồn tại
lâu dài. Ðó là hiểu biết những hiện tượng từng phần,
từng đoạn nhỏ trong ý nghĩa khoảnh khắc hiện tại. Hành
giả quán niệm những hiện tượng phồng, xẹp và những thọ
cảm, đang làm vậy với mục đích nhận thấy mỗi hiện tượng,
từng đoạn, từng phần, từ chút từ chút, trong khoảnh khắc
hiện tại.
Do
đó hành giả thấy rõ ràng rằng các thọ -- lạc, khổ và
vô ký -- đối với trần cảnh liên hệ, liền tức khắc tan
biến ngay vào lúc vừa khởi sanh, và tự kinh nghiệm bản thân
hành giả nhận thức bản chất vô thường của tất cả những
cảm thọ.
Ðể
giải đáp câu hỏi, "thọ là thường còn hay vô thường?"
Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, vốn đã chứng đắc tầng Nhập Lưu
xuyên qua phương cách quán niệm như vậy, trả lời theo kinh
nghiệm riêng của chính mình, "Bạch Ngài, là vô thường."
Cơn
đau khổ không thể chịu đựng trong thân là thường còn hay
vô thường? Cơn đau không thường còn bởi vì trước đây
không có, nó khởi sanh vào một lúc nào, rồi trong khi hành
giả niệm "đau, đau," thì nó tan biến. Ðối với người hành
thiền mà tâm định khá dõng mãnh, mỗi cơn đau sẽ hoại
diệt một khi được niệm đến. Khi một cảm thọ tan biến,
một thọ mới phát hiện chỉ để rồi nhanh chóng hoại diệt.
Khi
tâm định thật rất vững mạnh, thọ lạc có thể được
nhận thấy trong thân. Khi những cảm thọ nầy được ghi nhận,
nó liền biến mất. Tan biến như vậy, những thọ lạc ấy
là thường còn hay vô thường?
Ðôi
khi có những thọ khổ hay lo âu phát hiện; những loại thọ
nầy cũng biến mất mỗi khi hành giả niệm đến. Nó là thường
còn hay vô thường? Trong trường hợp tương tợ, một hình
ảnh bất hạnh đưa đến thọ khổ, và thọ khổ nầy cũng
tan biến mỗi khi được ghi nhận. Thọ lạc hay thọ khổ phát
khởi qua thính giác, tỷ giác hay vị giác cũng tan biến mỗi
khi hành giả niệm đến.
Khi
ghi nhận một sự việc không đặc biệt khổ hay lạc, một
đối tượng trung tính, không có tánh cách lạc hay khổ như
di động phồng lên và xẹp xuống của bụng, loại thọ được
cảm nhận là vô ký, và thọ vô ký nầy cũng tan biến mỗi
khi được niệm đến. Như vậy nó là thường còn hay vô thường?
Tất
cả ba loại thọ: lạc, khổ và vô ký, đều vô thường. Khi
nhận thức ba loại thọ nầy là vô thường cũng nhận thức
rằng nó là khổ, vô ngã, nó chỉ là những hiện tượng.
Ðức Thế Tôn tiếp tục nêu lên câu hỏi: "Cái gì vô thường
là khổ hay lạc" -- "Bạch Ngài là khổ."
Trước
đây chúng ta đã đề cập dong dài đến điểm nầy, giờ
đây chỉ cần vắn tắt sơ lược. Người ta ưa thích thọ
lạc, và xem đó là trường tồn, bất biến. Ðến khi thấy
những cảm thọ tan biến trong từng khoảnh khắc, không tồn
tại đến một phần mười của một giây đồng hồ, thì
ta không còn khát khao thèm muốn nó nữa. Chỉ vì muốn thỏa
thích hưởng thụ cái được gọi là hạnh phúc mà người
ta dành hết thì giờ để chạy theo rượt bắt nó, không phải
một giờ, không phải một ngày, một tháng hay một năm, mà
suốt cuộc sống. Trong cuộc chạy theo rượt bắt hạnh phúc,
họ phải đương đầu với cái chết. Không có gì khác đáng
tin cậy mà ta có thể nương tựa. Dầu không thể thành tựu
hạnh phúc hằng mong mỏi, ta cũng tìm đủ phương cách để
tránh khỏi những hoàn cảnh bất hạnh hay những thọ khổ,
và tự giữ mình trong tình trạng vô ký, không lạc không khổ.
Chí đến khi đã tìm được thọ vô ký, loại cảm thọ không
lạc cũng không khổ, tình trạng đau khổ trong thân và sợ
sệt lo âu trong tâm vẫn có thể khởi sanh, và nó phát hiện
bởi vì thọ lạc và thọ vô ký không thường còn. Như vậy
thọ lạc và thọ vô ký cũng không đáng được tin cậy. Ta
không thể tin chắc vào đó. Trong khi chạy theo nó, là đau
khổ; khi nó tan biến, cũng là đau khổ, bởi thọ khổ sẽ
thay vào đó, đặc biệt là sau khi thọ lạc hoại diệt, trong
lúc mà ta đang chìm sâu trong hoàn cảnh âu sầu thất vọng.
Thí dụ như trường hợp người làm cha mẹ, đang vui thú trong
hạnh phúc êm đềm với con cái, bỗng nhiên mất một người
con vì chết chóc hay hoàn cảnh phải chia ly; như một gia đình
đang sum hợp vui vầy bỗng nhiên phải phân tán chia lìa; hay
một người đang sống thoải mái tiện nghi với tiền bạc
của cải sung túc, bỗng nhiên mất hết tài sản sự nghiệp.
Tất cả những trường hợp tương tợ làm cho người ta đau
khổ nặng nề đến đỗi có thể mất cả mạng sống. Như
vậy, thọ rất là hiểm nguy khủng khiếp, đáng sợ vì bản
chất vô thường của nó.
Ðến
đoạn kế trong bài kinh Pāli:
"Cái
gì là vô thường, khổ và luôn luôn phải chuyển biến, có
thích hợp không nếu ta xem đó như, 'cái nầy là của tôi,
đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài không."
Ðây
là phương cách vấn đáp cùng một loại được dùng để
giải thích sắc uẩn (ở phần trước). Sự khác biệt là
trong trường hợp sắc uẩn, danh từ hàm xúc chẳng những
sắc pháp bên trong cơ thể vật chất của mình mà cũng bao
gồm tất cả đối tượng bên ngoài, hữu tri hữu giác cũng
như sự vật vô tri giác. Trường hợp thọ uẩn thì bài kinh
đặc biệt chú trọng đến các thọ bên trong mình, được
chấp thủ rằng đây chính là "tôi". Trong thọ lạc ta lấy
làm thích thú tuyên bố, "đây là của tôi". Trường hợp thọ
vô ký, vì không có thọ khổ, có bản chất lạc; mặc dầu
trạng thái dính mắc không mạnh mẻ lắm nhưng vẫn có một
vài hình thức thích thú trong chính sự kiện là nó không lạc
không khổ. Thọ khổ, lẽ dĩ nhiên, là không đáng được
ưa thích, nhưng nghĩ rằng "chính tôi đang đau khổ" vẫn là
chấp thủ vào tự ngã.
Dính
mắc trong thọ bằng cách ấy đưa đến si mê về bản chất
thật sự của đặc tướng vô thường, khổ và phải chuyển
biến. Vị hành giả ghi nhận những thọ cảm lúc nó khởi
sanh liền thấu hiểu bản chất áp bức, cưỡng bách, của
nó. Về sự hay biết cảm thọ của mình, có gì khác biệt
giữa người hành thiền và người không hành thiền chăng?
Quả
thật có sự khác biệt lớn lao giữa người thường, vốn
xem thọ là tự ngã, là chính mình -- "Tôi đau khổ; tôi cảm
nghe thỏa thích; tôi nghe đau nhức trong khi thỏa thích hưởng
thụ thọ lạc; nếu cơn đau chấm dứt, tôi sẽ cảm nghe hạnh
phúc," -- trong khi đó người hành thiền hiểu biết từ lúc
đầu rằng đó chỉ là tình trạng liên tục khởi sanh và
hoại diệt của những uẩn. Khi thọ khổ phát hiện, người
hành thiền cảm nhận đó là một cảm thọ không đáng được
ưa thích, trong tiến trình liên tục tiếp nối của danh và
sắc, đã xen vào. Vị ấy nhận thức rằng đó là một tiến
trình sanh diệt khác đã thay thế vào tiến trình mà mình vừa
quan sát. Do đó ngay lúc nó vừa phát hiện vị hành giả liền
nhận ra bản chất áp bức của nó, giống như một cái gai
đâm vào và nằm trong thịt.
Một
thọ lạc có vẻ là thích thú và tốt đẹp trong khi nó xảy
diễn, nhưng bao nhiêu cố gắng để tạo ra và bao nhiêu công
phu để bảo trì, gìn giữ không để cho nó mất, chính những
công trình ấy là đau khổ. Nếu trong khi chạy theo rượt bắt
những thọ lạc ấy mà đã có những hành động bất thiện
(akusala kamma) ta còn phải bị sa đọa vào khổ cảnh để gặt
hái những quả dữ của nó. Thích thú trong thọ lạc dẫn
dắt ta mãi mãi lặn hụp trong vòng quanh những kiếp sinh tồn,
mãi mãi chịu cảnh già nua và chết chóc. Khi thọ lạc chấm
dứt, tình trạng dính mắc trong đó sẽ đưa đến sầu khổ
phiền muộn sâu xa. Do đó thọ lạc phải được xem là đau
khổ.
Kinh
Daṭṭhabba Sutta của bộ Saṁyutta Nikāya (Tạp A Hàm) có mô
tả phương cách phải niệm những thọ ấy như sau:
Thấy
Những Thọ Cảm Ðúng Như Nó Thật Sự Là Vậy
Yo
sukhaṁ dukkhato adda, dukkha madakkhi sallato,
Adukkhamasukhaṁ
santaṁ, addakkhiṇaṁ aniccato,
Suve
sammaddaso bhikkhu, parijānāti vedanā.
"Một
vị tỳ khưu nhìn thọ lạc là khổ, thọ khổ như một gai
nhọn và thọ vô ký cũng là khổ, bởi vì tất cả là vô
thường."
"Vị
tỳ khưu ấy đã nhìn thấy thọ một cách tận tường, chân
chánh (tức không để sanh khởi những ý niệm thường còn,
thường lạc và tự ngã) và hiểu biết."
Vị
hành giả chuyên cần chú niệm thấy thọ khổ là một sự
áp bức giống như gai nhọn đâm vào mình. Thọ lạc được
xem là đáng sợ, vì phải chịu bao nhiêu khổ nhọc phiền
toái trong khi chạy theo rượt bắt cho được nó, rồi bao nhiêu
đau buồn sầu muộn khi mất nó. Thọ vô ký được xem là
khổ vì tánh chất vô thường của nó và bao nhiêu cố gắng
cần phải có để bảo trì gìn giữ nó lại. Do đó khi được
hỏi có thích hợp không nếu xem thọ "Cái nầy là của tôi,
đây là tôi, đây là tự ngã của tôi" Nhóm Năm Vị liền
đáp, "Bạch Ngài, quả thật không thích hợp."
Ðức
Thế Tôn dạy rằng không nên xem thọ là "của tôi", "tôi",
"tự ngã của tôi". Bởi vì Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã chứng
đắc tầng Nhập Lưu, lời dạy nầy đối nghịch với sự
hiểu biết rằng thọ là thường còn, xem thọ là "của tôi",
là "tôi" và hiểu biết sai lầm như vậy đưa đến tham ái
và ngã mạn. Ðối với người thường trong dân gian lời dạy
nầy đi ngược với tà kiến "đây là tự ngã của tôi" là
"chính tôi".
Bản
Chất Vô Thường Của Tưởng Uẩn
Saññā
niccā vā aniccā vāti. Aniccā Bhante. Yampanāniccaṁ, dukkhaṁ vā
taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipari-ṇāma
dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso
me attāti. No hetaṁ Bhante.
"Tưởng
(saññā) là thường còn hay vô thường?" Ðức Thế Tôn hỏi.
-- "Bạch Ngài, là vô thường."
Tưởng
(saññā), hồi nhớ những sự việc đã thấy trước kia. Tưởng
là yếu tố chánh trong sự học hỏi và trí nhớ. Người có
tưởng uẩn tốt sẽ hồi nhớ lâu dài những gì đã thấy
hay đã nghe chỉ một lần. Ðặc tính nhớ dai nầy được
lầm hiểu là mãi mãi thường còn, là tốt, là tự ngã.
Nhưng
khi tưởng (saññā) đã nhận ra một đối tượng, thì nó
liền tan biến. Những gì mà sau đó mình nhận ra là chức
năng của một tưởng (saññā) khác. Nghe cũng vậy. Những
gì mình nghe và hồi nhớ nhận ra lần đầu tiên cũng nhanh
chóng hoại diệt, rồi tiếp theo sau đó là sự nghe và nhận
ra mới khác. Vị hành giả đã thận trọng ghi nhận những
gì đã thấy hay đã nghe, nhận thức rằng hai tiến trình thấy
và nhận ra, hay nghe và nhận ra, cùng tan biến một lúc. Hiểu
biết như vậy hành giả đi đến kết luận rằng saññā,
tưởng, cũng là vô thường. Hiểu như vậy, khi Nhóm Năm Vị
Tỳ Khưu được hỏi tưởng (saññā) là thường còn hay vô
thường thì liền trả lời, "Bạch Ngài, là vô thường", bởi
vì các vị nầy nhận thấy rằng những tiếng nói của Ðức
Thế Tôn nhanh chóng tan biến, ngay trong khi các Ngài vừa nghe
và nhận ra nó.
"Lại
nữa, cái gì vô thường là đau khổ hay hạnh phúc?" -- "Bạch
Ngài, là đau khổ." "Toại nguyện hay bất toại nguyện?" --
"Bạch Ngài là bất toại nguyện." "Giờ đây, cái gì vô thường,
bất toại nguyện, phải chuyển biến, có thích hợp không
nếu xem đó 'Cái nầy là của tôi, đây là tôi, đây là tự
ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài, không thích hợp."
Ðây
là những câu vấn đáp mà chúng ta đã thảo luận trước.
Ðiều chỉ cần phải hiểu biết là bằng cách nào tưởng
(saññā) dính mắc với tham ái và tà kiến. Thông thường,
người mà không thể quán niệm những hiện tượng danh và
sắc bằng lòng với tưởng (saññā), bám níu vào nó (với
lòng tham ái) nghĩ "đây là của tôi". Nghĩ rằng trí nhớ dai
của ta tốt hơn của người khác và hãnh diện với điều
ấy: đó là bám níu với ngã mạn. Cũng nghĩ rằng mỗi khi
thấy và nghe ta hồi nhớ và nhận ra, đó là bám níu do tà
kiến, "đây là tự ngã của tôi, là chính tôi."
Trong
thực tế, sự hồi nhớ (saññā) một đối tượng là vô
thường, vừa khởi sanh liền nhanh chóng tan biến. Vị hành
giả thận trọng có chánh niệm nhận thức rằng saññā, tưởng,
là vô thường, bởi vì tự chính mình thấy nó vừa khởi
sanh liền tức khắc tan biến; vị ấy nhận thức tưởng là
đau khổ bởi vì nó là vô thường, vừa sanh đã diệt. Tưởng,
saññā, có thể giữ lại trong trí nhớ những sự việc khủng
khiếp, và như thế là có tính cách áp bức. Tưởng, saññā,
không ở yên trong một hình thức mà luôn luôn chuyển biến.
Tưởng, saññā, không đáng cho ta tham ái như một điều gì
vừa ý đẹp lòng, không đáng cho ta lấy đó làm hãnh diện
vì bền bỉ, có thể tồn tại lâu dài, cũng không đáng cho
ta tin tưởng vào đó như một thực thể sống. Do đó Nhóm
Năm Vị Tỳ Khưu đáp rằng xem tưởng, saññā, như "của ta,
ta, tự ngã của ta" là không thích đáng.
Ðức
Thế Tôn nêu lên câu hỏi như thế nhằm gội rửa tình trạng
dính mắc với lòng tham ái và ngã mạn trong tâm Nhóm Năm Vị
Tỳ Khưu, xem tưởng uẩn, vốn vô thường, khổ, luôn luôn
chuyển biến, như "Ðây là của tôi, đây là tôi," và đối
với người thế gian thông thường, nhằm diệt trừ tà kiến
về tự ngã, xem tưởng uẩn là chính ta.
Bản
Chất Vô Thường Của Hành Uẩn
Saṅkhārā
niccā vā aniccā vāti. Aniccā bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vā
taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipari-ṇāmadhammaṁ
kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso me attāti.
No hetaṁ bhante.
"Saṅkhārā,
hành uẩn, là thường còn hay vô thường?" Ðức Thế Tôn nêu
lên câu hỏi. -- "Bạch Ngài, là không thường còn."
Saṅkhārā,
hành, là nguyên động lực đưa đến những hành động có
ý muốn bằng thân, khẩu, ý. Theo ý nghĩa trừu tượng, đây
là năm mươi hai tâm sở -- do tác ý, cetanā, dẫn đầu. Những
tâm sở nầy có ảnh hưởng trong một phạm vi rộng lớn.
Năng lực làm động cơ nằm phía sau tất cả những hành động
bằng thân như đi, đứng, ngồi, nằm, co vào, duỗi ra và cử
động là saṅkhārā, hành; những hành động bằng khẩu cũng
do chính saṅkhāra nầy thúc đẩy. Những lời nói của Sư
(Ngài Mahāsi Sayadaw) hiện thời cũng do saṅkhārā, hành, làm
động cơ. Khi nói và đọc kinh, mỗi tiếng được thốt ra
đều do saṅkhārā. Cũng chính saṅkhārā nằm phía sau mọi
ý nghĩ và mọi tính toán trong tâm.
Thông
thường người ta nghĩ rằng những hành động -- bằng thân,
khẩu, ý -- ấy là do "tôi, tự ngã của tôi" thực hiện, và
cái "tôi", người hành động ấy, là thường còn. Nhưng vị
hành giả có chánh niệm quán chiếu di động phồng lên xẹp
xuống của bụng và thận trọng ghi nhận mọi sinh hoạt của
tâm, ngay vào lúc nó khởi phát. Vị ấy nhận thức rằng cetanā,
tâm sở tác ý, liên hợp với tâm tham (lobha) làm phát sanh
ý muốn và thúc đẩy ta làm theo những gì nó muốn. Người
hành thiền phải ghi nhận những sinh hoạt tâm linh ấy, "ưa
thích," "muốn". Khi liên hợp với tâm sân, tác ý phát hiện
là tình trạng nổi nóng, hay giận dữ. Khi tác ý liên hợp
với tâm si, ta nghĩ đến những hành động sai lầm; những
ý tưởng sai lầm ấy phải được ghi nhận. Khi liên hợp
với ngã mạn, tác ý thổi phồng tự ngã, và ta phải loại
bỏ bằng cách niệm, "ngã mạn, ngã mạn." Khi liên hợp với
lòng ganh ghét, đố kỵ, hay bỏn xẻn, tác ý liên hợp với
tánh ganh tỵ và bỏn xẻn, phải được ghi nhận đúng như
vậy.
Khi
tác ý phát sanh liên hợp với đức tin và niềm tin vững chắc
ấy làm phát triển tâm đạo nhiệt thành và lòng tôn kính
Phật, Pháp, Tăng, thúc đẩy ta lễ bái Tam Bảo. Những tư
tưởng ấy được ghi nhận là đức tin, tâm đạo và lòng
tôn kính, ngay khi nó khởi phát. Hành động bất thiện (akusala)
đưa đến quả dữ, nhưng tác ý có thể chận đứng, cắt
đứt luồng tư tưởng bất thiện, khuyến khích ta gạt bỏ
tư tưởng bất thiện ấy. Hành động thiện (kusala) dẫn đến
quả lành; tác ý có thể thúc giục ta theo chiều hướng thiện
ấy. Tác ý có thể phát hiện dưới nhiều hình thức và phải
được ghi nhận đúng như vậy. Tác ý có thể phát hiện liên
hợp với niệm, chăm chú vào một sự kiện nào, vào một
lúc nào, một hành động thiện tương tợ có thể được
thực hiện. Tác ý có thể khởi sanh theo nhiều phương cách
khác nhau, và thái độ tâm linh của những chặp tư tưởng
ấy cũng phải được ghi nhận. Khi tâm từ (mettā) phát sanh
cùng với tác ý (cetanā) thì có những cảm nghĩ từ thiện
đối với người khác, những tư tưởng muốn làm cho người
khác có hạnh phúc. Với tâm bi, tác ý phát sanh liên hợp với
lòng thương hại kẻ khác và những suy tư tìm cách giúp người
thoát khỏi cảnh bất hạnh. Tất cả những thái độ tâm
linh ấy phải được thận trọng ghi nhận.
Trong
khi ghi nhận di động phồng xẹp ở bụng, nếu có những cảm
thọ cứng, mềm hay nóng, lạnh khởi hiện, phải ghi nhận
tất cả. Trong khi ghi nhận như vậy có thể có những ý nghĩ
thúc giục ta co tay vào hay duỗi tay ra và thay đổi thế ngồi.
Những điều ấy cũng phải được ghi nhận đầy đủ. Rồi
có sự thúc giục muốn cúi đầu xuống hay ngẩng đầu lên,
muốn nghiêng mình ra trước hay ngả ra sau, đứng dậy và đi.
Những sinh hoạt ấy của cơ thể đều do tác ý khởi phát
ý muốn và tạo duyên. Tất cả đều phải được ghi nhận.
Rồi có tác ý thúc giục ta có những lời nói, nói theo chiều
hướng nào và nói như thế nào, cũng y như hiện thời Sư
(Ngài Mahasi) đang nói. Vị hành giả cẩn trọng theo dõi tất
cả những sinh hoạt của tác ý ắt tự kinh nghiệm bản thân,
hiểu biết rằng những "ý muốn làm" ấy vừa khởi sanh đã
tức khắc tan biến và do đó, là vô thường. Và Nhóm Năm
Vị đã chứng đắc tầng Nhập Lưu xuyên qua kinh nghiệm bản
thân hiểu biết bản chất vô thường của vạn hữu. Trong
khi nghe kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, nhìn thấy trở
lại bản chất vô thường, bằng cách nhận thức trạng thái
không ngừng sanh diệt của hành, saṅkhāra, như xúc (phassa),
tác ý (cetanā), sự chú ý (manasikāra), đức tin (saddhā), và
niệm (sati). Do đó, để trả lời câu hỏi "Hành là thường
còn hay vô thường?" Năm Vị bạch, "Bạch Ngài, là không thường
còn."
"Lại
nữa, điều gì vô thường, điều ấy là đau khổ hay hạnh
phúc?" -- "Bạch Ngài, là đau khổ."
"Ðiều
gì vô thường, đau khổ và phải luôn luôn chuyển biến ...
có thích nghi không nếu ta xem đó là 'Của tôi, đó là tôi,
đó là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài, là không thích nghi."
Ðây
là những loại vấn đáp mà ta đã thấy trước kia. Ta chỉ
nên hiểu biết thế nào saṅkhāra, hành, có thể làm cho ta
dính mắc với tham ái, ngã mạn và tà kiến, và làm thế nào
không để bị vướng kẹt trong những dính mắc ấy.
Người
thường không thể ghi nhận những hiện tượng sắc và danh
ngay vào lúc nó khởi sanh, tin tưởng rằng hành (hay tâm sở
tác ý) là tốt đẹp và hoan hỷ thỏa thích trong ấy. Ðó
là dính mắc với tham ái. Nghĩ rằng những việc làm ấy là
của ta, do chính ta thực hiện, rằng ta có thể làm giỏi hơn
những người khác, đó là dính mắc với ngã mạn. Nghĩ rằng
những hoạt động như đi, đứng, ngồi, co vào, duỗi ra, và
di động, do chính ta thực hiện -- "Tôi đi, chính tôi làm điều
ấy; tôi nói, chính tôi nói; tôi nghĩ, chính tôi nghĩ; tôi
thấy, tôi nhìn, tôi nghe, chính tôi thấy, nghe, nhìn, và lắng
tai" -- là dính mắc với tà kiến. Nghĩ rằng sự dính mắc
ấy nằm bên trong người hành động, được gọi là kāraka
attā, tin tưởng rằng tất cả những hành động -- bằng thân,
khẩu và ý -- đều do chính ta thực hiện. Tin tưởng rằng
cái "ta" ấy, vốn nằm bên trong ta, đi khi nó muốn đi, đứng,
ngồi, co vào, duỗi ra, nói, và suy tư khi nó muốn, khi nó quyết
định, và chính ta điều khiển là sāmi attā.
|