|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Thức
cưỡng chế ta như thế nào
Nguyên
nhân sanh khởi
Câu
chuyện Tỳ Khưu Sāti
Tóm
lược chánh pháp
Sắc
pháp giống như khối bọt
Thọ
giống như bong bóng nước
Tưởng
giống như ảo cảnh
Hành,
saṅkhāra, giống như cây không lỏi
Thức
giống như trò ảo thuật
Tóm
lược
-IV-
THỨC
-ooOoo-
Viññāṇaṁ
bhikkhave anattā; viññāṇañca h'idaṁ bhikkhave attā abhavissa
nayidaṁ viññāṇaṁ ābādhāya saṁvatteyya. Labbhetha ca viññāṇe
evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ ahosīti. Yasmā
ca kho bhikkhave viññāṇaṁ anattā tasmā viññāṇaṁ ābādhāya
saṁvattati na ca labbhati viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ hotu
evaṁ me viññāṇaṁ mā ahosīti.
"Nầy
chư Tỳ Khưu, thức là vô ngã..."
Danh
từ thức ở đây có nghĩa là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức và ý thức. Sáu loại thức nầy thường
được chấp là tự ngã, một thực thể sống: "Chính tôi
thấy; tôi thấy". "Chính tôi nghe; tôi nghe". Như vậy tất cả
sáu loại thức được xem chỉ là của một tự ngã duy nhất.
Loại chấp ngã nầy cũng dễ hiểu: những vật không có sự
hiểu biết như khúc gỗ, như nấm đất, hay viên gạch, được
xem là vô tri giác; chỉ những sự vật có khả năng hiểu
biết được xem là hữu tri hữu giác, một thực thể sống.
Vì thế ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng nhãn thức,
nhĩ thức v.v... được xem là tự ngã, nhưng trong thực tế
nó cũng không phải là tự ngã, không phải là thực thể sống.
Ðức Thế Tôn tuyên ngôn rằng thức không phải là tự ngã,
và Ngài giải thích như sau:
"Nếu
thức là tự ngã, là thể chất bên trong ta, ắt nó không có
khuynh hướng gây đau khổ cho ta; thế thường ta không cố
ý cưỡng chế, áp bức, làm cho chính ta đau đớn khổ sầu.
Ta cũng phải có thể điều hành như thế nào để luôn luôn
chỉ có những trạng thái tâm trong sạch, không bao giờ có
tâm ô nhiễm. Nhưng trong thực tế tâm có chiều hướng gây
đau khổ, và ta không thể điều khiển và kiểm soát. Như
vậy nó không phải là tự ngã, không phải là thể chất bên
trong ta.
Nầy
chư tỳ Khưu, trong thực tế thức không phải là tự ngã.
Nó có chiều hướng gây đau khổ cho ta và ta không thể sai
bảo thức, "Thức của ta phải như thế nầy (luôn luôn trong
sạch), thức của ta phải không như thế kia (ô nhiễm)".
Giữa
tâm (citta) và năm mươi hai tâm sở (cetasikā) phần đông chúng
ta quen thuộc với tâm hơn.
Người
Miến Ðiện thường nói đến tâm, nhưng rất ít khi đề cập
đến các tâm sở như phassa (xúc, sự tiếp xúc giữa giác
quan và đối tượng của nó) luôn luôn đi chung với tâm. Hơn
nữa, họ xem cái tâm là tự ngã, là "ta": "Chính tôi thấy,
tôi thấy", "chính tôi nghe, tôi nghe". Không phải chỉ có chúng
sanh trong cảnh người mà chư Thiên (Devas) và những chúng sanh
khác cũng tin tưởng rằng thức, hay tâm, là tự ngã. Tuy nhiên,
thức quả thật không phải là tự ngã. Vì không phải là
"ta" nên nó có chiều hướng cưỡng chế, làm cho ta đau khổ.
Thức
Cưỡng Chế Ta Như Thế Nào?
Thức
cưỡng chế, làm cho ta mất thoải mái khi thấy sự vật nhơ
nhớp ghê tởm, khi nghe những âm thanh ồn ào nhức tai, những
lời nghịch nhĩ, bất nhã, khi hửi những mùi hôi thúi, khi
nếm những vật thực mà mình không thích, khi sờ đụng một
vật làm cho mình khó chịu, khi nghĩ đến một việc đáng
sợ, đáng ghét, hay có những ý tưởng buồn phiền, sầu muộn.
Tất
cả chúng sanh đều thích sống ở một nơi vừa ý, muốn thấy
những cảnh đẹp, nhưng cuộc đời đưa đẩy lắm khi phải
gặp những cảnh tượng ghê tởm nhớp nhúa. Ðối với người
bất hạnh, phần lớn những gì mình thấy chỉ làm bất toại
nguyện. Ðó là nhãn thức có khuynh hướng cưỡng chế, làm
cho ta khó chịu. Thay vì được nghe những âm thanh êm dịu,
những lời lẽ làm mát lòng như ý muốn thì có những trường
hợp không may phải chịu nghe những tiếng động rền tai,
rùng rợn, những tiếng nói hăm dọa, những lời nguyền rủa.
Ðó là phương cách mà nhĩ thức áp chế, làm cho ta bực bội,
mất thoải mái. Lại nữa, tất cả chúng sanh đều muốn thưởng
thức những mùi thơm nhưng phải chịu cảnh chỉ được hửi
những mùi hôi thúi. Ðó là trường hợp tỷ thức cưỡng
chế.
Trạng
thái cưỡng chế của nhãn thức, nhĩ thức và tỷ thức đối
với chúng sanh trong cảnh người không đến nổi hiển nhiên
như trong thế gian cầm thú, hay trong những cảnh ngạ quỷ
(peta) và địa ngục. Trong các cảnh giới nầy, bản chất
cưỡng chế của thức uẩn càng rõ ràng nổi bật hơn nhiều.
Những sinh vật trong thế gian loài thú luôn luôn thấy những
điều ghê sợ, nghe những tiếng động hải hùng rùng rợn,
và những con vật sống ở những nơi nhơ nhuốc bẩn thỉu
lúc nào cũng hửi mùi hôi thúi. Càng đau khổ hơn loài thú
rất nhiều là hạng ngạ quỷ, những chúng sanh đói khát cùng
cực, và càng khổ hơn nữa là cảnh địa ngục. Họ mãi mãi
đắm chìm trong tình trạng khốn khổ nguy nan, thấy những
cảnh hải hùng rùng rợn, nghe những âm thanh hung tợn, và
hửi những mùi ô trược. Trong một vài cảnh địa ngục tất
cả những gì được thấy, được nghe, được hửi, được
sờ đụng đến và những ý tưởng nghĩ đến đều làm kinh
sợ, tuyệt đối không có gì đẹp đẽ êm dịu. Chúng sanh
trong những cảnh giới ấy mãi mãi sống trong trạng thái khốn
khổ, luôn luôn bị sáu loại thức cưỡng chế. Nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức luôn
luôn gây phiền não, đau khổ.
Tất
cả mọi người đều muốn thưởng thức những món ăn vừa
miệng, nhưng người vô phúc phải luôn luôn sống với những
vật thực mà mình không thích. Ðó là tình trạng cưỡng chế
của thiệt thức. Ðây cũng vậy, sự áp bức của thiệt thức
càng hiển nhiên nổi bật trong bốn khổ cảnh. Dầu trong cảnh
người, ai cũng muốn dùng những thức ăn vừa miệng, nhưng
lắm khi vì hoàn cảnh như đau ốm chẳng hạn, phải gắng
gượng cố nuốt những vật thực mà mình không muốn. Ðôi
khi muốn chết cho rồi, để thoát ra khỏi những cảnh khổ
đau như vậy. Dĩ nhiên, trong bốn khổ cảnh chúng sanh còn
muôn phần khốn khổ hơn.
Người
đời thường muốn sống thoải mái thong dong, ít phải bận
tâm lo lắng, nhưng hoàn cảnh không để yên cho chúng ta sống
như vậy. Nhiều người phải vất vả buồn phiền, chán nản
thất vọng, sầu não và than van. Vài người suốt đời không
bao giờ vượt thoát ra khỏi cuộc sống hạn hẹp đầy đau
khổ và vô phúc. Họ luôn luôn phải bận tâm lo lắng về
cuộc sống. Họ là nạn nhân của thức uẩn.
Thức
không tùy thuộc ý muốn của ta mà sanh khởi do hoàn cảnh
quyết định. Ta không thể kiểm soát hay điều khiển thức
uẩn. Mặc dầu muốn thấy hình ảnh vui tươi xinh đẹp và
thích thú nhưng không thể được. Trái lại, ta phải gặp
toàn là những điều gai mắt. Ðó là một thí dụ về nhãn
thức. Nó không theo ý muốn, không nằm dưới quyền điều
khiển và kiểm soát của ta mà chỉ sanh khởi tùy duyên, tự
động phát sanh tùy thuộc điều kiện.
Cùng
thế ấy, mặc dầu ta muốn chỉ nghe những âm thanh êm dịu,
những lời lẽ làm vừa lòng, nhưng không thể được. Do đó,
đôi khi cần phải mở máy ghi âm hay vô tuyến truyền thanh
để được nghe những âm thanh mà mình thích hay những lời
nói êm tai. Ta không thích nghe những tiếng động ồn ào nhưng
khi nó vừa phát lên thì nhanh chóng lọt vào tai ta, không thể
tránh. Nhãn thức tự nhiên tự chính nó tùy duyên khởi sanh
mà không chịu quyền điều khiển hay quyền kiểm soát của
ta.
Ðối
với tỷ thức cũng thế. Mặc dầu ta thích thưởng thức những
mùi thơm dịu ngọt, nếu không được ắt không thỏa mãn.
Do đó chúng ta đi tìm những loại trầm hương, các thứ dầu
thơm và trồng những giống hoa có mùi thơm. Tuy nhiên, trong
một vài cảnh ngộ chúng ta phải hít vào những mùi hôi thúi
khó chịu, có khi những hơi độc có thể làm tổn hại đến
sức khoẻ. Ðó là những trường hợp cho thấy rằng ta không
thể điều khiển hay kiểm soát tỷ thức theo ý muốn, mà
nó chỉ khởi sanh do nguyên nhân và cơ duyên. Mặc dầu ta muốn
thưởng thức những vị ngọt bùi dễ chịu, nhưng nếu không
có thức ăn vừa khẩu vị thì thiệt thức thích thú ắt không
thể phát sanh. Do đó hằng ngày chúng ta tận lực gia công
mong tìm những thức ăn ngon. Nhưng đến khi đau ốm, để chữa
trị, chúng ta phải dùng thuốc đắng mà dĩ nhiên ta không
thích. Ðiều nầy cho thấy rằng ta không thể điều khiển
hay kiểm soát thiệt thức.
Thân
thức, cảm giác của thân, chỉ có thể thích thú khi có những
đồ vật vừa ý như quần áo xinh đẹp, giường ấm, nệm
êm hay chỗ ngồi thoải mái. Muốn được vậy phải luôn luôn
chuyên cần cố gắng để thâu thập những sự vật, vô tri
giác và hữu giác hữu tri, để tạo những cảm giác thích
thú của thân. Khi quá lạnh hay quá nóng, khi bị gai nhọn đâm
chích, bị phỏng lửa, bị khí giới gây thương tích, hoặc
lúc lâm trọng bệnh, chúng ta phải đau nhức dầu không muốn
chịu hậu quả khó chịu của thân thức. Như vậy rõ ràng
ta không thể kiểm soát hay điều khiển thân thức. Nó chỉ
tự động khởi phát khi hội đủ nhân và duyên.
Mỗi
người
đều muốn có đời sống hạnh phúc, an vui và thoải mái vừa
lòng, nhưng chỉ có thể thành tựu được như thế khi có
đủ tiền của và phương tiện. Vậy phải luôn luôn tận
lực cố gắng để bảo trì cuộc sống. Trong khi mong tìm phương
tiện để sống tiện nghi thoải mái và vui vẻ, thì lại phải
bận tâm suy tư về những nổi khó khăn của cuộc sống hằng
ngày -- về người thân kẻ yêu, về thân bằng quyến thuộc,
về ông chồng hay bà vợ hoặc con cái qua đời, về những
vấn đề tài chánh, về công ăn việc làm, về tuổi già và
sức yếu v.v... -- có thể khởi sanh bất cứ lúc nào và làm
hỏng hết hạnh phúc của chúng ta. Ðó là phương cách mà
ý thức khởi sanh, tự động và tùy thuộc nhân duyên. Ta không
thể điều khiển và kiểm soát.
Nguyên
Nhân Sanh Khởi
Chúng
ta đã dùng những từ ngữ "tùy theo nhân và duyên". Câu nầy
hàm ý "những hoàn cảnh và điều kiện nguyên nhân như thế
nào sẽ đưa đến hậu quả như thế nào"; cũng có nghĩa là
nguyên nhân tốt tạo những hậu quả tốt, nhân xấu đưa
đến quả xấu. Không có hậu quả nào sanh khởi chỉ vì ý
ta muốn. Quả như thế nào sẽ phát sanh do những nhân như
thế nào, dầu ta có muốn vậy hay không. Hậu quả được
tạo do những nguyên nhân tương ứng, ta không thể kiểm soát
và điều khiển. Như vậy rõ ràng nó không phải là "ta" hay
tự ngã, không phải là bản thể bên trong ta.
Ðức
Thế Tôn dạy rằng ý thức không phải là tự ngã bởi vì
ta không thể sai bảo hay điều khiển nó như thế nào theo
ý muốn.
Ðức
Thế Tôn dạy như vậy nhằm giúp ta diệt trừ chấp thủ sāmi
attā, vốn chủ trương rằng có một tự ngã nằm bên trong
con người mà ta có thể kiểm soát và điều khiển theo ý
muốn. Một khi đã loại trừ sāmi attā thì nivāsī attā, chấp
thủ rằng có một tự ngã trường tồn thường xuyên nằm
bên trong con người, cũng đồng thời được tẩy sạch. Khi
đã nhận thức rõ ràng rằng thức chỉ khởi sanh và hiện
hữu do nhân duyên và nhanh chóng tan biến, ta chứng nghiệm
hiển nhiên rằng không có cái gì như một tự ngã bền vững
thường còn. Thí dụ như nhãn thức chẳng hạn, chỉ khởi
sanh khi có mắt và đối tượng của sự thấy, tức nhãn căn
và nhãn trần. Cùng thế ấy nhĩ thức chỉ khởi sanh khi có
nhĩ căn và nhĩ trần, tỷ thức chỉ khởi sanh khi có tỷ căn
và tỷ trần, thiệt thức chỉ khởi sanh khi có thiệt căn
và thiệt trần, thân thức chỉ khởi sanh do thân và đối
tượng được sờ đụng, và ý thức chỉ khởi sanh khi có
tâm và đối tượng tâm linh, tức ý và pháp. Khi hiểu biết
rõ ràng những nguyên nhân tạo điều kiện đưa đến hậu
quả thích ứng như thế nào, ý niệm chấp thủ một thực
thể vĩnh tồn, nivāsī attā, tự nhiên tiêu diệt.
Vị
hành giả có chánh niệm, luôn luôn ghi nhận tiến trình sắc
và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, sẽ nhận chân rõ ràng rằng
thức luôn luôn khởi sanh và nhanh chóng tan biến, tùy thuộc
những điều kiện (tùy duyên). Như vậy hành giả hiểu biết
rõ ràng rằng không có một tự ngã hay thực thể sống đem
lại sự thấy. Vị ấy chứng nghiệm thật sự rằng nhãn
thức chỉ khởi sanh khi có đúng những điều kiện kết hợp
đầy đủ, tức khi hội đủ nhân duyên. Bằng cách ấy hành
giả loại trừ chấp thủ kāraka attā, tin tưởng rằng tất
cả những hành động, bằng thân, khẩu, ý, đều do một tự
ngã chủ động.
Những
vị không thể nhận thức bản chất thật sự của thức đúng
như thật sự thức là vậy ắt còn chấp thủ vững chắc
ba hình thức sāmi attā, nivāsī attā, và kāraka attā. Hình như
sự chấp thủ vào thức uẩn càng bền chặt vững chắc hơn
các uẩn kia.
Ngày
nay ta gọi đó là "linh hồn" hay thực thể sống. Trong ngôn
ngữ được dùng thường ngày, thức thường được nhắc
đến hơn là thọ, tưởng và hành, mặc dầu tất cả ba uẩn
nầy đều là những tâm sở đồng phát sanh với thức.
Người
ta xem như chính cái thức cảm giác, chính thức hồi nhớ sự
việc, và tạo nguyên nhân đưa đến hành động.
Câu
Chuyện Tỳ Khưu Sāti
Vào
thời Ðức Thế Tôn còn tại thế có vị tỳ khưu đệ tử
tên Sāti, hiểu biết sai lầm rằng thức là tự ngã, và khư
khư chấp thủ tà kiến về tự ngã ấy. Vị tỳ khưu Sāti
tuyên bố rằng mình hiểu biết và nắm vững lời dạy của
Ðức Thế Tôn như sau:
Tadevidaṁ
viññāṇaṁ sandavatti saṁsārāti anaññaṁ.
"Chính
cái thức nầy được chuyển sinh trong vòng luân hồi từ kiếp
nầy sang kiếp kia, không có gì khác."
Vị
tỳ khưu Sāti hiểu biết những lời dạy của Ðức Thế Tôn
như thế ấy. Thầy dựa quan kiến mình trên những câu chuyện
trong Túc Sanh Truyện (Jātaka) như tích Vua Vessantara, tượng
chúa Chaddan, và long vương Bhūridatta, được nói rằng đó
là tiền thân của Ðức Phật, là chính Ðức Phật trong một
tiền kiếp. Trong kiếp sống cuối cùng là Ðức Phật, những
phần thuộc sắc uẩn của Vua Vessantara, của tượng chúa Chaddan
hay của long vương Bhūridatta đã tan rã và biến dạng, nhưng
theo sự tin tưởng của Tỳ Khưu Sāti thì danh, tức phần tâm
linh của Ðức Phật trong kiếp nầy vẫn còn y là một với
phần tâm linh của Vua Vessantara v.v... thức ấy không hoại
diệt mà tồn tại vững bền xuyên qua những kiếp sống. Tỳ
khưu Sāti hiểu những lời dạy của Ðức Phật như thế ấy.
Ðó chỉ là chấp thủ nivāsī attā, xem thức là một tự ngã
liên tục, trường tồn vĩnh cửu.
Những
vị đệ tử có học của Ðức Phật cố gắng giải thích
cho Tỳ Khưu Sāti rằng hiểu như thế là sai lầm nhưng vị
nầy vẫn ương ngạnh, quyết định không nghe, chỉ tin rằng
mình hiểu biết Dhamma, Giáo Pháp, nhiều hơn. Quả thật rất
khó chỉ dạy Chánh Pháp cho một người ôm ấp tà kiến. Họ
xem người có lòng tốt muốn giúp họ sửa sai quan kiến lầm
lạc, là thấp kém, lạc hậu, không theo kịp đà tiến hóa
của xã hội cấp tiến, không phải như các bậc lãnh đạo
của họ, có tầm hiểu biết mới mẻ. Trong thực tế, những
ai tự xưng là Phật tử nên thận trọng suy tư xem sự hiểu
biết của mình có thích ứng với những lời dạy mà Ðức
Phật giáo truyền hay không. Nếu còn ôm ấp những quan kiến
không theo đúng một chiều với Giáo Pháp ắt ta đã đi lệch
ra ngoài Phật Giáo.
Không
thuyết phục được thầy tỳ khưu Sāti từ bỏ tà kiến của
thầy, vài vị sư đem câu chuyện bạch lại với Ðức Bổn
Sư và Ngài cho mời thầy đến. Khi được hỏi, thầy lặp
lại quan điểm của mình như sau: "Bạch Ngài, dựa trên những
câu chuyện Jātaka (Túc Sanh Truyện) mà Ðức Thế Tôn thuật
lại, con thấy rằng thức, hay tâm hiện tại, là một với
cái tâm trong những kiếp sống quá khứ. Tâm ấy không tiêu
diệt mà chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con hiểu
như vậy."
Ðức
Phật hỏi thầy hiểu thức là gì?
"Bạch
Ngài, thức là cái gì diễn đạt ý nghĩ của mình, cái gì
cảm thọ, cái gì kinh nghiệm hậu quả của những hành động
tốt hay xấu (ở nơi đây hay một nơi nào), trong kiếp nầy
hay trong một kiếp sống nào."
--
Nầy con người cuồng si, con đã nghe Như Lai diễn giải giáo
lý cho ai như thế ấy?" Ðức Thế Tôn khiển trách, Ṅhư Lai
giải thích rằng thức chỉ khởi sanh do nhân và duyên. Nếu
không có nhân duyên tạo điều kiện ắt thức không thể phát
sanh. Thay vì thế, con diễn giải sai lầm và cho rằng đó là
lời dạy của Như Lai. Bằng cách diễn giải và truyền bá
sai lầm lời dạy của Như Lai như thế con tạo nguyên nhân
cho nhiều hành động xấu phát sanh và như thế sẽ gây nhiều
sầu muộn và đau khổ cho con lâu dài trong tương lai."
Tuy
nhiên, Tỳ Khưu Sāti không chịu từ bỏ tà kiến của mình.
Giáo điều cuồng tín quả thật đáng sợ. Sāti là một vị
tỳ khưu, một đệ tử của Ðức Phật. Thầy theo học giáo
lý với Ðức Phật và tự xưng là hiểu biết đầy đủ.
Vậy mà còn ương nghạnh, không chịu từ bỏ quan kiến sai
lầm của mình mặc dầu đã được chính Ðức Phật nhắc
nhở khuyên dạy, sửa sai, và như thế mất cả niềm tin nơi
Phật Bảo. Ngày nay cũng có vài vị "đạo sư" dạy rằng không
cần phải giữ tròn năm giới và không cần hành thiền. Hiểu
biết giáo lý là đủ, các thầy dạy như vậy. Khi có người
học hiểu uyên thâm sẵn lòng tốt muốn soi sáng chánh Pháp
cho những "ông thầy dạy đạo" ấy thì họ bướng bỉnh cứng
đầu trả lời rằng họ sẽ không từ bỏ quan kiến của
riêng mình, dầu chính Ðức Phật có đến để dạy họ cũng
vậy.
Nhiều
trường hợp cho thấy rằng cái "không-phải Giáo Pháp" được
quảng bá lưu truyền như là "chính Giáo Pháp". Ðiều chánh
yếu mà ta nên làm là thận trọng tỉ mỉ xem xét các lời
dạy ấy để nhổ tận gốc rễ những giáo lý không hợp
với chánh Pháp. Về phương diện nầy có lời tuyên ngôn chính
xác như sau:
Tóm
Lược Chánh Pháp
1.
Sabba pāpassa akāraṇaṁ -- Cố tránh mọi hành động bất thiện.
Những hành động sai lầm bằng thân như sát sanh, trộm cắp,
và tà hạnh, ta phải nên cố tránh. Những hành động bất
thiện bằng lời nói như lời giả dối, phỉ báng và lời
lẽ có tánh cách lăng mạ, xúc phạm người khác cũng phải
nên cố tránh. Cũng nên cố tránh và từ bỏ những tư tưởng
bất thiện. Tư tưởng bất thiện chỉ có thể được loại
trừ bằng cách hành thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát (vipassanā).
Cố
tránh tất cả mọi hành động bất thiện bằng thân, khẩu,
ý là Giáo Huấn Ðầu Tiên của Ðức Phật.
2.
Kusalassa upasampadā -- Trau giồi và phát triển mọi hình thức
tạo thiện nghiệp; như để bát hay dâng cúng đến các bậc
trưởng lão, giữ giới và hành thiền. Bằng cách nghiêm trì
Lời Dạy Ðầu Tiên ta có thể làm cho giới đức được trở
nên trong sạch đến một mức độ nào, nhưng bằng cách thực
hành tiết chế, không làm điều nầy hay điều nọ thì chưa
vững chắc củng cố giới đức của Thánh Ðạo. Chỉ có
thể thành tựu Con Ðường bằng pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā)
đến giai đoạn cận định hay nhập Thiền.
Vài
người có ý xem thường pháp hành thiền Vắng Lặng. Tuy nhiên,
chính Ðức Thế Tôn khuyên bảo nên phát triển tâm vắng lặng.
Các tầng Thiền (Jhāna) là nền tảng lý tưởng để hành
giả dựa trên đó mà phát triển thiền Minh Sát (vipassanā).
Nếu không được đến mức cận định ta nên cố gắng gia
công tiến cho được đến mức tạm định của thiền Minh
Sát. Một khi đã thành đạt mức độ nầy tuệ Minh Sát (vipassanā
ñāṇa) sẽ tự động phát triển cho đến khi thành tựu Thánh
Ðạo.
Trong
Phật Giáo, nhiệm vụ chánh yếu nhất là thành đạt những
phước lành của tâm định Minh Sát và Tuệ Minh Sát, bởi
vì nếu không có hai yếu tố quan trọng ấy thì không thể
thành tựu Thánh Ðạo và Thánh Quả. Vậy, nhằm thành tựu
phước báu của Thánh Ðạo và Thánh Quả, phải trau giồi
và phát triển nghiệp lành của thiền Minh Sát. Ta không thể
không quan tâm đến bất luận hình thức phước báu nào, đó
là Lời Dạy thứ nhì của Ðức Phật, cần thiết để cho
ba loại hành động thiện được tròn đủ.
Chúng
ta có nghe "những lời dạy mới mẻ", vốn đi ngược chiều
với hai lời dạy thứ nhất và thứ nhì của Ðức Phật.
Người theo những lời dạy tương tợ như vậy nói, Ṅhững
ô nhiễm bất thiện (akusala kilesa) không tồn tại vĩnh tồn,
do vậy, không cần gì phải cố gắng loại trừ nó. Cùng thế
ấy không cần phải cố gắng làm những điều lành, giữ
giới, hành thiền Vắng Lặng hoặc thiền Minh Sát. Tất cả
những cố gắng ấy đều vô ích và chỉ tạo đau khổ." Ta
phải hiểu rằng tất cả những lời dạy mới mẻ ấy hoàn
toàn tương phản với chánh pháp mà Ðức Phật giáo truyền.
3.
Sacitta pariyodapanaṁ -- Giữ tâm trong sạch.
Con
Ðường phải được phát triển bằng cách thực hành thiền
Minh Sát (vipassanā). Với Ðạo được phát triển và Quả được
thành tựu theo cách đó tâm không còn mảy may ô nhiễm và
do đó, tuyệt đối trong sạch. Theo Chú Giải, mức độ trong
sạch được thành tựu như vậy sẽ không kém phần trong sạch
hơn tâm của một vị A La Hán. Những lời nầy hoàn toàn đúng
theo kinh điển Pāli. Tuy thế cũng có người làm tổn hại
Phật Giáo bằng cách nói nghịch lại, rằng lối sống nghiêm
trì giới luật, phát triển thiền định và thiền Minh Sát,
là vô ích, chỉ đưa đến đau khổ. Cứ "Giữ tâm an nghỉ,
không để cho tâm có bất luận sinh hoạt nào. An trụ tâm
trong một điểm hư vô bên trong con người, nơi mà không có
sinh hoạt bất thiện nào phát triển. Bằng cách đó tâm sẽ
ở trong trạng thái trong sạch." Ðó là một lời dạy hoàn
toàn không chứa đựng lý trí, vô căn cứ và không đứng
vững. Khuyên dạy không nên hành sīla, samādhi, và bhāvanā
(giới, định, và trau giồi trí tuệ) là phá hoại Giáo Pháp.
Không thể giữ tâm trong sạch mà không thực hành thiền định
và thiền tuệ. Thức, do bản chất thiên nhiên của nó là
không có thực thể, không thể kiểm soát và không thể điều
khiển. Quả quyết rằng có thể giữ cái tâm theo ý ta muốn
mà không cần đến sự trợ giúp của pháp hành thiền là
phủ nhận kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, vì kinh nầy
dạy rằng không thể bảo thức, "Thức phải như thế nầy,
thức phải không như thế kia." Ðiều nầy đáng cho ta thận
trọng suy tư.
Câu
cuối cùng của lời dạy được tuyên ngôn chính xác là: "Etaṁ
Buddhāna sāsanaṁ." "Ba lời dạy nầy -- tức tránh làm những
điều ác, thực hành mọi điều thiện, giữ tâm trong sạch
-- là Lời Dạy của tất cả chư Phật." Phật Giáo chánh yếu
chỉ bao gồm ba yếu tố ấy. Muốn giữ Phật Giáo tồn tại
lâu dài, thịnh vượng, ta phải cố tránh những hành động
bất thiện, càng nhiều càng tốt và chỉ dạy người khác
không nên làm điều ác, càng nhiều càng tốt. Ta phải cố
gắng tạo thiện nghiệp, càng nhiều càng tốt và khuyên dạy
người khác làm như vậy. Nếu gặp ai dạy điều không-đúng-chánh
Pháp như: "Không nên tránh làm điều ác, không nên làm điều
lành", ta phải tận tâm ngăn cản họ không nên dạy người
những điều sai lầm như vậy. Ta phải thanh lọc tâm bằng
cách hành thiền và khích lệ người khác cũng làm như vậy.
Phải soi sáng sự hiểu biết sai lầm của họ nhằm mục đích
duy trì bền vững và phồn thịnh giáo lý của Ðức Phật.
Chúng
ta đã phần nào đi lệch ra ngoài câu chuyện của Tỳ Khưu
Sāti để nhắc đến mối hiểm họa mà những lời dạy sai
lầm có thể gây ra cho Phật Giáo. Ðể trở lại câu chuyện,
khi Tỳ Khưu Sāti ương ngạnh khư khư chấp thủ tà kiến của
mình, Ðức Thế Tôn hỏi chư Tăng hiện diện:
"Các
con có bao giờ nghe Như Lai giải thích Giáo Pháp như thế không?
"Bạch
Hóa Ðức Thế Tôn không. Các con chỉ nghe rằng thức phát
sanh do những điều kiện (nhân và duyên), và nếu không có
nhân duyên ắt không có thức."
Rồi
Ðức Thế Tôn giải thích thêm:
--
"Mỗi thức phát sanh do những điều kiện của nó và được
đặt tên theo những điều kiện ấy. Như thức phát sanh do
mắt và đối tượng của mắt thì được gọi là nhãn thức;
thức phát sanh do tai và âm thanh thì gọi nhĩ thức; thức phát
sanh do mũi và mùi thì gọi là tỷ thức; do lưỡi và vị thì
gọi là thiệt thức; do thân và đối tượng được sờ đụng
thì được gọi là thân thức; do tâm và đối tượng của
tâm (pháp) thì được gọi là ý thức. Cũng như lửa, khi phát
sanh do ta đốt củi thì được gọi là lửa củi; phát sanh
do ta đốt gỗ tre, cỏ, phân bò, trấu, hay rác rưới thì được
gọi là lửa tre, lửa cỏ, lửa phân bò, lửa trấu, hay lửa
rác, cùng thế ấy thức được gọi tùy theo điều kiện mà
nó phát sanh như thế nào."
|