|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Phần
nhập đề bài kinh
Lời
dạy của Ðức Phật: bắt đầu bài kinh
Lầm
tưởng thân là tự ngã
Tại
sao thân nầy không phải là tự ngã
Jīva
attā và parama attā
Căn
nguyên của niềm tin có tạo hóa
Luyến
ái bám vào tự ngã
Bốn
loại luyến ái bám vào tự ngã
Thân
quán niệm xứ
[I]
THÂN
-ooOoo-
Con
đem hết lòng thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bậc Ứng
Cúng, đấng Chánh Biến Tri.
Tất
cả những giáo lý hay những tín ngưỡng ngoài Phật Giáo đều
nằm trong hạng những giáo thuyết tin tưởng vào một bản
ngã trường tồn, attā. Họ chủ trương rằng có cái gì như
một linh hồn, một thực thể sống [thực thể sống: được
phiên dịch từ Anh ngữ "living entity"], thật sự nằm bên trong
tất cả chúng sanh.
Giữa
một thế gian vững vàng tin chắc vào ý niệm về bản ngã
hay linh hồn trường cửu, Ðức Phật tuyên ngôn rằng "Attā,
linh hồn hay thực thể sống, không phải là thực tại; đó
chỉ là ngôn từ chế định (tục đế). Trong ý nghĩa cùng
tột (chân đế) thật sự chỉ có luồng trôi chảy liên tục
của tiến trình sắc và danh, những hiện tượng vô ngã".
Ðiều
cốt yếu là cần phải thấu hiểu rõ ràng và tường tận
lý vô ngã, anattā, do Ðức Phật giáo truyền. Trước tiên
Ngài đề cập rộng rãi đến Bốn Chân Lý Thâm Diệu (Tứ
Diệu Ðế) trong bài kinh Dhammacakka Sutta, Chuyển Pháp Luân.
Khi giảng kinh Hemavata Sutta, Ngài nhắc trở lại và dạy rằng
"với sự khởi sanh của lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý) cũng có một thế gian, một chúng sanh, phát khởi." Rồi
Ðức Phật trình bày cặn kẽ và rõ ràng lý thuyết vô ngã
trong Anattalakkhaṇa Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng.
Phần
Nhập Ðề Bài Kinh
Trong
Kinh Ðiển Pāli, phẩm Khandhavagga, của bộ Saṁyutta Nikāya,
Tạp A Hàm, phần nhập đề bài Kinh Vô Ngã Tướng được
các vị Trưởng Lão ghi chép như sau nhân kỳ Kết Tập Tam
Tạng Lần Ðầu Tiên:
Evamme
sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Bārāṇasiyaṁ viharati Isipatane
Migadāye. Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi, "Bhikkhavo"
ti. "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca.
"Tôi,
Ānanda, có nghe như vầy", Ðức Ānanda bắt đầu, "Vào một
thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong khu vườn Lộc Uyển tại
Isipatana, gần thành Varanasi."
Bài
kinh Dhammacakka Sutta, Chuyển Pháp Luân, được giáo truyền vào
đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trước đây 2,552 năm [tức trước
năm mà Ngài Tác Giả thuyết thời Pháp nầy]. Vào lúc bấy
giờ thính giả chỉ có nhóm Năm Ðạo Sĩ [*] . Ngài Koṇḍañña
(Kiều Trần Như) chứng đắc tầng Tuệ Giác Cao Siêu Ðầu
Tiên và trở nên vị Thánh Nhập Lưu, Sotāpanna, hay Tu Ðà Huờn.
Ðã thấm nhuần Giáo Pháp đầy đủ, với niềm tin kiên cố
bất thối chuyển nơi Giáo Huấn của Ðức Phật, Ngài xin
thọ lễ xuất gia với Phật và gia nhập vào Giáo Hội Tăng
Già (Saṅgha).
[*]
2 Nhóm Năm Ðạo Sĩ" tức năm vị đạo sĩ thường được
gọi là năm anh em Kiều Trần Như, trước đó đã có theo tu
với Bồ Tát trong khi Ngài thực hành pháp tu khổ hạnh. Về
sau, năm vị nầy là năm người đầu tiên trong cảnh người
được nghe Ngài giảng Bài Pháp Ðầu Tiên và trở thành năm
vị đệ tử đầu tiên của Ðức Phật.
Bốn
vị đạo sĩ còn lại, các Ngài Vappa, Bhaddhiya, Mahānāma và
Assaji chưa thành tựu Tuệ Giác Cao Siêu. Vì lẽ ấy Ðức Thế
Tôn khuyến khích nên tích cực chuyên cần thực hành Giáo
Pháp (Dhamma) dưới sự hướng dẫn của chính Ngài. Các vị
đạo sĩ ở luôn một chỗ, không ra ngoài dầu là để đi
bát. Chính Ðức Thế Tôn cũng ở lại tại nơi để sách tấn
và theo dõi sự tiến bộ của các vị hành giả, giúp tháo
gỡ các gút mắt, vượt qua mọi chướng ngại, và loại trừ
những ô nhiễm có thể phát sanh trong khi hành thiền. Như thế
ấy, do nhờ được chính Ðức Thế Tôn dạy dỗ và hướng
dẫn, Ngài Vappa thành tựu Ðạo và Quả trong ngày đầu sau
đêm trăng tròn tháng Bảy DL., Ngài Bhaddiya trong ngày thứ nhì,
Ngài Mahānāma trong ngày thứ ba và trong ngày thứ tư Ngài Assaji
chứng đắc Tuệ Giác Cao Siêu. Tất cả bốn vị đều trở
thành bậc Thánh Tu Ðà Huờn.
Sư
đã dài dòng đề cập đến những sự chứng ngộ nầy trong
đoạn cuối của bài giảng về Kinh Chuyển Pháp Luân [Dhammaccakka
Sutta - Xem "The Great Discourse on Turning of the Wheel of Dhamma", do
tác giả Ngài Mahasi Sayadaw, bản dịch của U Ko Lay; Buddhadhamma
Foundation ấn hành]. Lúc ấy Sư nói rằng ngoại trừ Ngài Koṇḍañña,
bốn vị kia chưa đủ thuần thục tinh luyện để thành tựu
Tuệ Giác Cao Siêu liền tức khắc sau khi nghe thời Pháp, mà
còn phải tích cực chuyên cần tu niệm thêm. Vì lẽ ấy Ðức
Bổn Sư luôn luôn ở bên cạnh để đôn đốc các vị tận
lực thực hành Giáo Pháp. Ðề cập đến sự kiện nầy Sư
muốn đề cao cảnh giác những vị hành giả bị các học
thuyết vô trách nhiệm dẫn dắt sai lầm, tin rằng có thể
chứng đắc tầng Thánh Nhập Lưu chỉ bằng cách nghe thuyết
giảng một thời Pháp, không cần phải mất nhiều công phu
tinh tấn hành thiền Minh Sát.
Các
Bản Chú Giải ghi rằng sau khi tất cả năm vị đạo sĩ đã
thành tựu tầng Thánh Nhập Lưu và xuất gia, thọ giới tỳ
khưu, trở thành Hội Viên của Giáo Hội Tăng Già, Ðức Phật
thuyết giảng thời Pháp Anattalakkhaṇa Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng,
trong ngày thứ Năm sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL.
Như
vậy, khi Ðức Ānanda tuyên ngôn "Vào một thuở nọ", thì "thuở"
ấy là ngày thứ 5 sau đêm trăng tròn tháng Bảy, trong khi Ðức
Thế Tôn ngự trong vườn nai (Lộc Uyển) gần thành phố Varanasi.
"Vào
lúc bấy giờ, khi Ðức Thế Tôn ngự tại Lộc Uyển, trong
thành Varanasi, Ngài mở lời kêu gọi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu,
"Nầy chư Tỳ Khưu" và Nhóm Năm Vị Sư trả lời, "Bạch Ðức
Thế Tôn". Rồi Ðức Thế Tôn truyền dạy:
Lời
Dạy Của Ðức Phật: Bắt Ðầu Bài Kinh
Rūpaṁ
bhikkhave anattā. Rūpañca hidaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ
rūpaṁ ābādhāya saṁvatteya; labbhetha ca rūpe evaṁ me rūpaṁ
hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosīti.
Nầy
chư tỳ khưu, cơ thể vật chất không phải là tự ngã, linh
hồn thường còn, hay thực thể sống."
Thông
thường người ta xem chính mình và những người khác là những
thực thể sống, mỗi thực thể sống nầy có một linh hồn,
hay tự ngã, được gọi trong tiếng Pāli là attā, tương đương
với danh từ Sanskrit ātman. Attā cũng được biết là jīva,
sự sống, như vậy attā hàm xúc khái niệm về sự sống,
sinh lực, linh hồn, hay thực thể sống. Ôm ấp ý niệm tin
tưởng rằng có một linh hồn hay một thực thể sống bên
trong con người được biết là một khái niệm sai lầm, hay
tà kiến về tự ngã (attādiṭṭhi). Người thế gian bình
thường bị dính kẹt trong tà kiến về tự ngã nầy; sự
khác biệt giữa người nầy với người kia chỉ là tình trạng
dính mắc ấy chặt chẽ và hiển hiện như thế nào, nhiều
hay ít.
Người
hành thiền Minh Sát, vipassanā, đã phát triển quan kiến của
mình về tiến trình danh và sắc với tuệ minh sát sắc bén
và đã suy niệm về sự kiện không có một tự ngã, một
cái "ta", hay thực thể sống, đã vượt thoát ra khỏi tình
trạng dính mắc vào ý niệm sai lầm về tự ngã, nhưng chỉ
thoát khỏi như vậy trong thời gian ghi nhận sự khởi sanh
và hoại diệt của danh và sắc (tức trong khi hành thiền).
Thế thường, khái niệm sai lầm về tự ngã ấy chưa dứt
khoát chấm dứt mà sẽ còn trở đi trở lại.
Nhằm
loại trừ khái niệm sai lầm về tự ngã và làm sáng tỏ
rằng không có cái gì như linh hồn hay thực thể sống trong
danh và sắc, dầu ở bên trong thân ta hay trong thân ai khác,
Ðức Thế Tôn bắt đầu bài kinh với lời tuyên ngôn: "Rūpaṁ
bhikkhave anattā: Nầy chư tỳ khưu, rūpa, sắc không phải tự
ngã, linh hồn hay thực thể sống."
Lầm
Tưởng Thân Là Tự Ngã
Cơ
thể vật chất nầy mà ta quan niệm sai lầm là tự ngã, vốn
thật là gì? Những đặc tính vật chất sau đây hợp thành
nền tảng của hình thể vật chất: phần nhạy của mắt
làm cho ta thấy đối tượng; phần nhạy của tai làm cho ta
nghe âm thanh; phần nhạy của mũi làm cho ta biết mùi; phần
nhạy của lưỡi làm cho ta hay biết vị; phần nhạy của thân
làm cho ta cảm giác sự xúc chạm; "ý căn" (hadāya vatthu), là
căn môn của thức; và đặc tính vật chất của mạng căn
hay sinh lực.
Nếu
thận trọng quán sát ta thấy rằng nhãn thức khởi sanh (tức
có sự thấy) vì có phần nhạy của mắt, và với nhãn thức,
phát khởi khái niệm về một thực thể sống hay tự ngã.
Cùng thế ấy, vì có phần nhạy của tai, mũi, lưỡi, và thân
ta có nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, và thân thức. Ý căn,
căn môn của thức do đó có những tư tưởng và sự suy tư
đưa đến ý niệm về một cái "ta", tự ngã, hay thực thể
sống. Mạng căn là sinh lực khơi động sinh khí vào cơ thể
vật chất và bảo trì không để cho cơ thể vật chất hư
hoại và tan rã. Mạng căn nầy chỉ là đặc tính của sắc,
phần vật chất, mà người đời thường lầm tưởng là linh
hồn, một thực thể sống.
Nếu
không có phần nhạy của các giác quan thì không có gì để
lầm hiểu là linh hồn hay thực thể sống. Chẳng hạn như
ta thử quan sát một tượng người bằng gỗ, nhìn vào giống
hệt một người nhưng không có giác quan nào làm khởi phát
sự hay biết. Ta không bao giờ có thể lầm hiểu đó là một
chúng sanh có linh hồn hay một thực thể sống. Cùng thế ấy
trong một xác chết ta sẽ không bao giờ lầm tưởng là có
một linh hồn hay một thực thể sống trong đó bởi vì các
giác quan không có phần nhạy. Khi phần nhạy hiện hữu thì
những chuyển hóa của sắc, những đặc tính phụ thuộc và
đồng thời phát sanh cùng sắc pháp, những đặc tính nhạy
của sắc pháp như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân -- sự tiếp
chạm của những nguyên tố đất (paṭhavī), lửa (tejo), gió
(vāyo), đặc tính lỏng và làm dính liền của nguyên tố nước
(āpo), cùng với tánh nam hay tánh nữ của sắc pháp cũng được
khái niệm lầm lạc là có một tự ngã [Lời người dịch:
Xin xem Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch quyển A Manual of Abhidhamma,
của tác giả Cố Ðại Ðức Nārada, chương VI, từ trang 339
trở lên].
Những
đặc tính của sắc như sự thấy, sự nghe, sự hửi, đồng
phát sanh với những phần nhạy của mắt, tai và mũi cũng
được quan niệm sai lầm là có một linh hồn hay một thực
thể sống: tôi thấy, tôi nghe, tôi hửi. Tóm tắt, toàn thể
thế gian vật chất đồng thời hiện hữu với phần nhạy
của sự hay biết được lầm xem là một thực thể sống,
một linh hồn.
Trong
ngôn ngữ thông thường cũng vậy, thân nầy -- tức sự kết
hợp của những đặc tính vật chất -- được nói là tôi,
tự ngã. Nói như vậy không sai lầm, mà thích hợp với sự
hiểu biết chế định của thế gian (tục đế), nhưng nhìn
theo quan điểm cùng tột, hay thực tại tuyệt đối (chân đế),
thì không có gì của cơ thể vật chất nầy là tự ngã. Nó
chỉ là những uẩn, tức sự kết hợp những đặc tính của
sắc. Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn tuyên ngôn một cách rõ ràng
và minh tường rằng, Ṁặc dầu thông thường người ta quan
niệm rằng các uẩn, hay các nhóm đặc tính của sắc là một
chúng sanh, trong thực tế đó không phải là tự ngã mà chỉ
giản dị là những hiện tượng vật lý."
Tuy
nhiên, những người theo học thuyết chủ trương rằng thân
nầy là "ta", là tự ngã của ta, sẽ nêu lên thắc mắc, "Tại
sao thân nầy không phải là tự ngã?"
Ðức
Thế Tôn cung ứng giải đáp như sau:
Tại
Sao Thân Nầy Không Phải Là Tự Ngã?
--
Nầy chư Tỳ Khưu, nếu thân nầy là tự ngã, là chính ta,
ắt nó sẽ không có khuynh hướng làm cho ta đau khổ hay sầu
muộn, và ta phải có khả năng sai bảo, 'Thân tôi phải như
thế nầy (tức phải ở trong những điều kiện tốt đẹp
nhất); thân tôi phải không như thế kia (trong một tình trạng
tồi tệ bi đát).' Ta phải có thể ảnh hưởng đến thân
như thế đó."
Nếu
thân nầy là tự ngã, là chính ta, ắt nó không làm cho ta đau
đớn, nhưng trong thực tế thân nầy bắt buộc ta phải chịu
đau khổ bằng nhiều cách. Nó không tồn tại trẻ trung và
khoẻ mạnh, nó trở nên già nua, bệnh hoạn và chết. Nếu
không có thân ắt ta không bị đau khổ vì tóc bạc, răng long,
lưng khòm, tai điếc, mắt mờ, chân mỏi, gối dùn, tàn tật.
Chính thân nầy làm cho ta chịu đau khổ.
Lại
nữa, bởi có thân nên ta phải chịu đau đớn: đau mắt, đau
tai, đau răng, đau lưng, đau bụng, phải chịu nóng, chịu lạnh,
chịu đau và chịu nhức, và những chứng bệnh máu, bệnh
da, bệnh bao tử và bọng đái. Những chứng bệnh nầy phát
sanh bởi vì có thân. Bởi có thân nên chúng ta đau khổ vì
đói, vì khát, vì bị muổi mồng và những loại rắn rít
v.v... chích cắn. Cũng vì có thân nên ta đau khổ khi ở trong
những cảnh giới bất hạnh. Tóm tắt, chúng ta phải chịu
những hoàn cảnh đau đớn và sầu khổ cũng vì có thân. Cũng
do nơi thân nên trong kiếp sống làm người ta phải chịu những
hiện tượng như chết chóc. Khi những thành phần của sắc
pháp trong thân biến chuyển, suy đồi và hư hoại thì cái
chết đến. Có thể nói rằng cơ thể vật chất nầy làm
cho ta đau khổ vì nó hoại diệt.
Như
vậy ta có thể suy gẫm rằng nếu cơ thể vật chất nầy
thật sự là chính ta ắt nó không làm cho ta đau khổ vì già,
bệnh và chết. Ta có thể làm cho người khác đau khổ nhưng
sẽ không làm cho chính mình đau khổ. Nếu thân nầy là chính
nó ắt nó sẽ không làm cho nó đau khổ vì già nua, bệnh hoạn
v.v...
Lại
nữa, dầu trước khi bắt đầu già, bệnh và chết, thân nầy
cũng không ngớt gây cho ta đủ loại sầu muộn dưới nhiều
hình thức. Mặc dầu còn trẻ trung, tương đối cường tráng
và dồi dào sức khoẻ, ta cũng không thể ở yên không động
đậy một thời gian lâu dài trong một tư thế như ngồi, đứng,
hay đi. Phải luôn luôn xoay trở, luôn luôn cử động. Tất
cả chúng ta đều biết rằng ở yên lâu dài trong một oai
nghi là khó như thế nào. Chúng ta biết rằng ngồi yên trong
nửa giờ hay một giờ không cử động, hoặc nằm yên trong
hai hoặc ba tiếng đồng hồ mà không nhúc nhích là khó như
thế nào. Ta phải thường xuyên thay đổi tư thế vì sẽ cảm
nghe đau nhức hay bực bội ở chân sau một thời gian ở yên
không cử động. Tất cả những trạng thái khó chịu ấy
khởi sanh vì cơ thể vật chất nầy; nói cách khác chính cái
thân nầy làm cho ta khó chịu.
Vậy,
ta có thể suy tư rằng nếu thân nầy là chính ta, là tự ngã
của ta, ắt nó không gây đau khổ cho ta như vậy.
Lại
nữa, ṅếu thân nầy là chính ta thì ta phải có thể sai bảo,
"Thân phải như thế nầy, thân phải không như thế kia." Tất
cả chúng sanh đều muốn thấy thân mình luôn luôn khoẻ mạnh
và trẻ trung cường tráng, không già nua, không bệnh hoạn,
và không chết. Nhưng cơ thể vật chất nầy không bao giờ
vâng lời, nó từ chối, không làm theo ý ta muốn. Thời xuân
xanh son trẻ vững bước đi dần đến tuổi già, sức cường
tráng khoẻ mạnh từ từ giảm sút, suy đồi, và đưa dần
đến bệnh hoạn, rồi sau cùng đến bại hoại và chết.
Nếu
thân nầy là chính ta nó sẽ không gây đau khổ cho ta và nó
phải vâng theo ý muốn của ta. Trong khi người khác có thể
không tùng phục vâng lời ta thì ít ra thân nầy -- tức chính
ta -- phải làm theo ý muốn của ta vì nó là chính ta. Nhưng
thực tế không phải vậy. Ðiều nầy cho thấy rằng thân
nầy không phải là tự ngã, là chính ta. Vì lẽ ấy nó triền
miên gây đau khổ cho ta và không nằm dưới quyền kiểm soát
của ta. Ðức Thế Tôn tiếp tục giải thích sự kiện nầy
như sau:
Yasmā
ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati,
na ca labbhati rūpe evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī'
ti.
Nầy
chư Tỳ Khưu, trong thực tế thân nầy không phải là ta. Vì
không phải là ta nên nó có khuynh hướng làm cho ta đau khổ
và sầu muộn, và ta không thể sai bảo thân, 'Hãy như thế
nầy, hãy không phải như thế kia.' Ta không thể gieo ảnh hưởng
và điều khiển thân như vậy".
Jīva
Attā Và Parama Attā
Những
người tin theo chủ thuyết có tự ngã nói rằng có hai loại
bản ngã: jīva attā và parama attā. Theo những người nầy mỗi
cá nhân được cấu tạo, người, trời (deva), hay thú đều
có một tự ngã, một linh hồn hay thể chất gọi là jīva
attā, khởi nguyên của đời sống. Khởi nguyên của đời
sống ấy thường được tin tưởng là do Thần Linh Tạo Hóa
sáng tạo, và vài giáo thuyết chủ trương rằng những khởi
nguyên đời sống cá nhân ấy, hay tiểu hồn, là một phần
nhỏ của attā to lớn (đại hồn) và xuất phát từ đại
hồn của đấng Thần Linh.
Parama
attā là "Ðại Ngã", hay "Ðại Hồn", của đấng Thần Linh
Tạo Hóa, người tạo nên thế gian cùng với tất cả những
sinh vật. Theo vài người thì "Ðại Hồn" ấy thấm nhuần
toàn thể thế gian, nhưng có những người khác chủ trương
rằng đấng Thần Linh Tạo Hóa ngự trên một Cảnh Trời.
Những ý niệm về tiểu hồn và Ðại Hồn dĩ nhiên là giả
thuyết. Không ai đã gặp hay đã thấy vị Thần Linh hiện
thân của Ðại Hồn. Niềm tin nơi sự hiện hữu của một
Thần Linh, một đấng Tạo Hóa tạo nên muôn loài vạn vật,
đã có trước khi Ðức Phật chứng đắc Ðạo Quả Phật.
Niềm tin nầy rõ ràng xuất nguyên từ câu chuyện vị Phạm
Thiên Baka.
Vào
một thời nọ, Ðức Thế Tôn ngự đến cảnh giới Phạm
Thiên để rọi sáng niềm tin sai lầm của Ðức Phạm Thiên
Baka. Khi Ðức Phật đến thì Phạm Thiên Baka đón mừng và
tán dương, "Tôi xin tôn kính chào mừng Ðức Gotama, Ngài đến
đây là một điều rất tốt mặc dầu đã muộn màng. Cảnh
giới Phạm Thiên nầy là thường còn, là ổn định vững
bền, vĩnh cửu trường tồn, toàn hảo trên mọi phương diện.
Và ở đây không có người chết hay viên tịch, qua đời."
Ðáp
lời tuyên ngôn nầy Ðức Thế Tôn sửa sai vị Phạm Thiên
Baka như sau: -- Nầy chư Phạm Thiên! Phạm Thiên Baka quả thật
lầm lạc. Trong trạng thái lầm lạc si mê, Phạm Thiên Baka
mô tả cảnh giới vô thường của mình là thường còn và
ổn định." Vào lúc ấy một vị Phạm Thiên tùy tùng của
Ðức Phạm Thiên Baka phẩn nộ trả lời, Nầy Ðức Gotama,
không nên nói nghịch với Phạm Thiên Baka, không nên sửa sai
Ngài. Ðức Phạm Thiên Baka là vị Ðại Phạm Thiên, là vị
lãnh đạo của chư Phạm Thiên, Người Chinh Phục Tất Cả,
Người Không Thể Chiến Bại, bậc Toàn Giác, Toàn Tri, thấy
và hiểu biết tất cả; Ngài có nhiều oai lực và cầm quyền
tối thượng trên tất cả tạo vật; Ngài là người tạo
nên thế gian, người sáng tạo toàn thể thế gian, là bậc
Thánh cao thượng hơn tất cả; Ngài định đoạt số phận
của mọi người -- vua chúa, Phạm Thiên, người, Trời, và
thú -- những địa vị trong thế gian; Ngài thành tựu mọi
chứng đắc, là Cha của tất cả chúng sanh trong quá khứ và
vị lai!" Vị Phạm Thiên ca tụng những phẩm hạnh của Phạm
Thiên Baka như thế.
Trong
kinh Brahmajāla Sutta, Phạm Võng, khi giải thích căn nguyên của
tà kiến thường còn (thường kiến), Ðức Phật thuật lại
một câu chuyện tương tợ về Phạm Thiên.
Căn
Nguyên Của Niềm Tin Có Tạo Hóa
Theo
bài kinh nầy, khi một hệ thống thế gian trôi qua, vào một
lúc sau đó một hệ thống thế gian mới sẽ bắt đầu vận
chuyển đến. Vị Phạm Thiên của hệ thống thế gian trước
xuất hiện và nghĩ: "Ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên, Người
Chinh Phục Không Thể Chiến Bại, bậc Toàn Giác, Toàn Tri,
là Chúa, là người Làm Ra, người Tạo Nên, bậc Thánh Cao
Thượng Hơn Tất Cả, là người Ðịnh Ðoạt Số Phần của
tất cả, người đã thành tựu mọi chứng đắc, là Cha của
tất cả chúng sanh trong quá khứ và vị lai."
Những
vị Phạm Thiên đến sau cũng nghĩ rằng mình là vị Ðại
Phạm Thiên. Trong số những vị Phạm Thiên đã viên tịch
từ cảnh giới Phạm Thiên và tái sanh vào cảnh người, có
vài vị còn có thể hồi nhớ kiếp sống của mình trong cảnh
Phạm Thiên. Những vị nầy bạo dạn quả quyết rằng "Ðại
Phạm Thiên tạo chúng sanh trong thế gian. Chính vị Tạo Hóa,
vị Ðại Phạm Thiên, là thường còn, vĩnh viển trường tồn;
nhưng những tạo vật mà Ngài đã tạo nên thì không thường
còn, họ phải qua đời, chết." Những người nghe lời bạo
dạn được tuyên ngôn xuyên qua kinh nghiệm bản thân ấy,
sẵn sàng tin tưởng và chấp nhận. Ðức Thế Tôn giải thích
rằng đó là nguyên do vì sao có ý niệm rằng "chỉ có vị
Tạo Hóa, người tạo nên sự vật, là thường còn".
Từ
những đoạn vừa trích dẫn trên ta có thể phỏng đoán rằng
cái được gọi là Ðấng Thượng Ðế, vị Thần Linh đã
tạo nên tất cả chúng sanh, vị Tạo Hóa được nói là ở
trên một Cảnh Trời, có thể là vị Ðại Phạm Thiên đã
xuất hiện đầu tiên ở cảnh giới Phạm Thiên vào lúc sơ
khai của hệ thống thế gian. Ta cũng có thể nói rằng parama
attā, Ðại Ngã, hay Ðại Hồn, là tự ngã, cái "ta" của vị
Ðại Phạm Thiên ấy. Lời dạy của Ðức Phật cho thấy rõ
ràng rằng parama attā, cái Ðại Hồn ấy của vị Ðại Phạm
Thiên, trên căn bản là một với cái jīva attā, tiểu hồn,
của những chúng sanh khác; đó chỉ là luồng trôi chảy liên
tục của tiến trình danh và sắc được khái niệm một cách
sai lầm. Trong thực tế không có gì như tự ngã, một cái
"ta" hay một linh hồn vĩnh cửu trường tồn, ngoài hiện tượng
tâm-vật lý; đó chỉ là một giả thuyết do trí tưởng tượng
tạo nên.
Lại
nữa, những đặc tính tâm-vật lý của vị Ðại Phạm Thiên
cũng như đặc tính tâm-vật lý của các chúng sanh khác, đều
nằm trong định luật vô thường. Khi tuổi thọ khô cạn thì
vị Ðại Phạm Thiên cũng phải đối diện với cái chết
và tịch diệt. Trong thực tế vị Ðại Phạm Thiên không thể
viên mãn thành tựu tất cả những gì mình muốn; Ngài không
thể bảo trì những đặc tính vật lý của thân theo ý muốn.
Do đó, thân của vị Ðại Phạm Thiên cũng là vô ngã, anattā.
Luyến
Ái Bám Vào Tự Ngã
Thông
thường người ta tin tưởng mạnh mẽ rằng mỗi cá nhân có
một linh hồn, một thực thể sống, tồn tại suốt trọn
cuộc đời. Ðó là quan điểm của những người theo giáo
thuyết đoạn kiến, chủ trương rằng sau khi chết thì không
còn gì, chết là hết. Những người tin theo thuyết thường
kiến thì trái lại, tin rằng linh hồn của mỗi cá nhân là
bất diệt, sẽ không bị tiêu diệt sau khi chết mà sẽ sống
trong những cơ thể mới.
Ðối
với người theo thuyết thường kiến, thân nầy do hai thành
phần cấu hợp: cơ thể thô kịch và cơ thể vi tế. Vào lúc
cuối cùng của kiếp sống, cơ thể thô kịch bị tiêu diệt
nhưng cơ thể vi tế thì bỏ xác chết nầy nhập vào một
thân mới, và như vậy không bao giờ tiêu diệt mà sống vĩnh
viễn đời đời. Quan điểm thường kiến nầy được trích
dẫn nguyên văn, trọn vẹn và đầy đủ trong Phụ Chú Giải
(tức chú giải của Bản Chú Giải) sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga).
|