|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Một
khác biệt giữa tạng Luận và tạng Kinh
Hiểu
biết sai lầm rằng thọ là tự ngã
Thọ
gây đau khổ như thế nào
Thế
nào là không thể điều khiển thọ
Thọ
quán niệm xứ
Ngài
Sārīputta (Xá Lợi Phất) tìm con đường dẫn đến tuệ giác
cao siêu nhất
Kinh
Dīghanaka Sutta
Ðạo
và Quả phát sanh do nhàm chán
Ðạo
Quả A La Hán của Ngài Sārīputta
-II-
THỌ
-ooOoo-
Vedanā
bhikkhave anattā, vedanā ca hidaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ
vedanā ābādhāya saṁvatteyya labbhetha ca vedanāya evaṁ me vedanā
hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave vedanā anattā
tasmā vedanā ābādhāya saṁvattati na ca labbhati vedanāya evaṁ
me vedanā hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti.
Nầy
chư Tỳ Khưu, vedanā, thọ không phải là tự ngã..."
Có
ba loại thọ (vedanā):
1.
Sukha vedanā -- thọ lạc.
2.
Dukkha vedanā -- thọ khổ.
3.
Upekkhā vedanā -- thọ vô ký, không-vui-không-khổ.
Thông
thường ta không để ý đến thọ vô ký, chỉ có thọ lạc
và thọ khổ. Trong lúc trời nóng nực, ta cảm nghe thích thú
khi có ngọn gió mát thoáng qua, hoặc khi lau mặt, rửa mình
với nước mát. Lúc trời lạnh lẽo, nằm trên giường nệm
đấp mền bông thì nghe ấm áp dễ chịu. Sau khi ngồi hay đứng
một thời gian lâu ta duỗi tay, duỗi chân ra hoặc thay đổi
tư thế, làm giảm bớt tình trạng căng thẳng của thân thì
cảm nghe thoải mái dễ chịu, tiện nghi. Tất cả những cảm
thọ thoải mái tiện nghi do sự xúc chạm với những đối
tượng thích thú ấy là sukha vedanā, thọ lạc, mà người
đời thường giả thiết là tự ngã: "tôi nghe thích thú, tôi
cảm nghe thoải mái dễ chịu" -- và đeo đuổi chạy theo rượt
bắt.
Những
cảm thọ phát sanh khi xúc chạm với những đối tượng khó
chịu đựng như trời nóng nực, tay chân mệt mỏi, khí hậu
lạnh lẽo, ngứa ngáy trong cơ thể, được xem là dukkha vedanā,
thọ khổ. Trường hợp nầy cũng vậy, ta cũng giả thiết
thọ khổ nầy là tự ngã: "tôi đau, tôi nghe nóng, tôi ngứa,
tôi cảm nghe bất mãn." Do đó thông thường ta cố gắng tránh
né, không muốn xúc chạm với những đối tượng khó chịu
ấy.
Những
gì Sư vừa mô tả trên là những cảm thọ thích thú và đau
đớn của thân. Tâm cũng có thọ lạc và thọ khổ. Khi nghĩ
đến những đối tượng thích thú, ta cảm nghe hoan hỷ, hạnh
phúc, sukha vedanā, thọ lạc; nghĩ đến những chuyện làm ngã
lòng, nhàm chán, thất vọng, buồn khổ, sầu muộn, phiền
não, lo âu v.v... làm khởi sanh dukkha vedanā, thọ khổ. Khi sống
bình thường không có chuyện gì xảy ra thì tâm ta bình thản,
không-vui-không-buồn. Ðó là upekkhā vedanā, thọ vô ký, trung
tính -- không lạc, không khổ.
Ðó
là ba loại thọ liên quan đến tư tưởng hay trí tưởng tượng.
Khi thọ nhận những cảm giác như vậy thì thông thường,
người đời giả thiết đó là tự ngã:
"Tôi
cảm nghe vui sướng, tôi chán nãn, tôi thất vọng, tôi buồn
phiền, tôi cảm nghe bình thản, thản nhiên, không-vui-không-buồn."
Khi
những đối tượng thích thú được thấy, được nghe, được
hửi, hay được nếm thì thọ lạc phát khởi. Những cảm
thọ nầy được xem là tự ngã, "tôi cảm nghe vừa lòng, tôi
cảm nghe hạnh phúc." Rồi người ta chạy đuổi theo, rượt
bắt những điều tốt đẹp ấy của đời sống: đi hí trường
xem múa hát, nghe đờn kèn, đi tìm hoa thơm cỏ lạ, chạy theo
những mùi thơm, những vị ngọt và người ta chịu lao khổ
lâu dài, trải qua nhiều hoàn cảnh khó khăn để thỏa mãn
những nhu cầu của thân và tâm.
Khi
những đối tượng nghịch lòng được thấy, được nghe,
được hửi, hay được nếm thì cảm giác bất mãn phát khởi.
Ðây cũng vậy, người ta giả thiết rằng đó là tự ngã;
và cố gắng không quan tâm đến, quên đi những đối tượng
bất hạnh.
Những
diễn biến mà ta thường nghe và thấy xảy ra hằng ngày là
những đối tượng trung tính, không có tánh cách thích thú
hay buồn khổ đủ để gợi thọ lạc hay thọ khổ. Thọ vô
ký nầy cũng được giả thiết là tự ngã. Người ta không
bao giờ vừa lòng với những tình trạng nửa chừng -- không
thích thú cũng không buồn khổ -- do đó cố gắng thành đạt
cho được trạng thái thích thú, nhằm hưởng thụ thọ lạc.
Một
Khác Biệt Giữa Tạng Luận Và Tạng Kinh
Theo
tạng Luận (Abhidhamma), không có thọ lạc hay thọ khổ ngay
vào lúc thấy, nghe, hửi, hay nếm, chỉ có thọ vô ký. Nhưng
trong tạng Kinh, có nhiều bài Kinh mô tả những thọ cảm lạc,
khổ và vô ký phát khởi như thế nào ngay nơi những căn môn,
và có những bài Kinh khuyến khích nên quán niệm những thọ
cảm ấy đúng vào lúc thấy hay lúc nghe để thông suốt bản
chất thật sự của nó.
Bản
Phụ Chú Giải (chú giải của bản Chú Giải) sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Ðạo, giải thích những thọ lạc, thọ khổ và
thọ vô ký ấy trở thành hiển nhiên như thế nào ngay vào
lúc thấy và lúc nghe như sau:
Mặc
dầu nói rằng nhãn thức liên hợp với thọ vô ký, hậu quả
của một hành động bất thiện phải có tánh chất bất thiện,
không thể là thiện. Cùng thế ấy, mặc dầu nói rằng hậu
quả của hành động thiện là thọ vô ký, tánh chất của
nó là thiện, Tất cả những hành động thiện đều là nguyên
nhân sanh quả thiện, thọ lạc."
Giải
thích như vậy là thích nghi hơn và có thể được kiểm nhận
qua kinh nghiệm. Khi nhìn một đối tượng đẹp đẽ, lẽ dĩ
nhiên lúc vừa trông thấy liền có thọ lạc phát khởi. Khi
thấy một đối tượng ghê tởm, đáng ghét, đáng giận, thì
dĩ nhiên ta cảm nghe khủng khiếp ghê sợ hay bực mình ngay
vào lúc thấy, điều nầy cũng hiển nhiên. Những kinh nghiệm
ấy rõ ràng nổi bật trong trường hợp nghe hơn là trong lúc
thấy. Một âm thanh ṅhân" êm dịu, nhẹ nhàng, ắt làm phát
sanh cảm giác "quả" khoan khoái dễ chịu. Một âm thanh quá
đổi vang rền có thể gây khó chịu cho người nghe. Hậu quả
cũng tức khắc rõ ràng khi cảm thọ một mùi thơm ở mũi,
trái lại một mùi hôi thúi dơ bẩn có thể tức khắc gây
khó chịu, buồn nôn, làm nhức đầu hay tạo nên một triệu
chứng bất ổn nào khác. Một luồng hơi độc cũng có thể
làm chết người. Nhưng hậu quả hiển hiện nổi bật nhất
có lẽ là vật thực. Một món ăn hợp khẩu tức khắc tạo
nên ở lưỡi một thọ cảm rất thích thú, nhưng vài thứ
thuốc đắng khi ngậm vào thì liền cảm nghe thật khó chịu.
Một độc dược sẽ làm đau khổ vô cùng và có thể đưa
đến hậu quả tàn khốc như chết chóc.
Ṅhư
vậy, mặc dầu nói rằng nhãn thức liên hợp (tức phát sanh
cùng lúc) với thọ vô ký, nhưng hậu quả vô ký khi kinh nghiệm
những đối tượng bất như ý cũng có tánh chất đau khổ,
và hậu quả vô ký có tánh chất thiện khi kinh nghiệm một
đối tượng thiện vẫn là thích thú, hạnh phúc, thọ lạc."
Những
chú giải như thế ấy từ Bản Phụ Chú Giải sách Thanh Tịnh
Ðạo rất là thích nghi. Như vậy theo tạng Kinh thì tất cả
ba loại thọ đều có thể khởi phát ngay vào lúc có sự hay
biết cảm giác. Theo một lối hiểu biết, bất luận loại
nào trong ba loại thọ cũng có thể khởi phát vào giai đoạn
javana, tốc hành tâm [Lời người dịch: Xem Vi Diệu Pháp Toát
Yếu, chương IV, chú giải 13, trang 268. Và chương III, chú giải
25, trang 199-203.], trong tiến trình nhãn thức (cakkhudvāra vithī),
tạng Kinh ghi nhận rằng tất cả ba loại thọ đều khởi
phát cùng lúc với thức.
Hiểu
Biết Sai Lầm Rằng Thọ Là Tự Ngã
Như
vậy, những cảm giác được thu nhận như vừa lòng hay nghịch
ý mỗi khi thấy, nghe, đụng chạm hay hiểu biết là thọ (vedanā).
Khi cảm nhận thọ lạc thì có sự luyến ái bám vào tự ngã,
"tôi cảm nghe hoan hỷ". Khi có thọ khổ ắt có sự luyến
ái bám vào tự ngã khởi phát, "tôi cảm nghe không thích thú",
hoặc, "lúc nảy tôi cảm nghe hoan hỷ, nhưng bây giờ thì tôi
nghe khó chịu." Khi thọ là vô ký, ý niệm về tự ngã cũng
nổi bật rõ ràng, như "tôi cảm nghe không hoan hỷ cũng không
thích thú, không vui cũng không buồn, tôi thản nhiên." Ðó
là bám níu, chấp thủ vào tự ngã, attā, được gọi là vedaka
attā, tin rằng có một tự ngã, một cái "ta", hay một thực
thể sống, một linh hồn xem như thực thể đơn thuần, cảm
nhận những thọ lạc và thọ khổ.
Ðó
là thế nào mỗi người phàm tục chúng ta chấp thủ vào ý
niệm tự ngã. Trong văn chương Ấn Ðộ, thọ, vedanā, được
mô tả là tự ngã, hay có biểu tượng của một tự ngã,
nhưng ở Miến Ðiện thì không có một từ ngữ nào để diễn
đạt ý niệm nầy. Tất cả đều như nhau, có sự chấp thủ
vào niềm tin rằng, trong những trường hợp vui thích, "Chính
tôi thích thú vui sướng với điều nầy", và khi gặp những
hoàn cảnh khó khăn, "Chính tôi đau khổ". Lý do có những niềm
tin tưởng như thế là vì những vật vô tri vô giác, như đá
như gỗ, thì không cảm nghe lạnh hay nóng, không cảm giác
hạnh phúc hay đau khổ trong hoàn cảnh vừa ý hay nghịch lòng.
Ðàng khác, những vật hữu giác hữu tri, như chúng sanh, như
con người, thì đau khổ hay vui thích tùy hoàn cảnh. Do đó
chúng ta giả thiết rằng con người được phú cho một phần
tinh thần hữu giác hữu tri, một linh hồn, một thực thể
sống, và chính cái thực thể sống ấy cảm nhận những thọ
lạc vào lúc hạnh phúc, và thọ khổ vào những cơn đau khổ
buồn phiền.
Trong
thực tế, thọ không phải là tự ngã, không phải là một
thực thể sống, mà chỉ là những hiện tượng khởi sanh
và hoại diệt tùy duyên, do hoàn cảnh tạo điều kiện. Vì
lẽ ấy Ðức Thế Tôn tuyên ngôn trước tiên, lúc mở đầu,
Nầy chư Tỳ Khưu, thọ không phải là tự ngã." Và Ngài tiếp
tục giải thích:
"Nầy
chư Tỳ Khưu, nếu thọ là tự ngã (là chính ta), thì nó không
có khuynh hướng gây đau khổ hay thất vọng buồn phiền (cho
ta), và ta phải có khả năng sai bảo, 'Thọ của tôi phải
như thế nầy (tức luôn luôn hoan hỷ thỏa thích), thọ của
tôi phải không như thế kia (tức đau khổ buồn phiền)'. Ta
phải có thể ảnh hưởng đến thọ như thế ấy."
Ðúng
vậy, nếu thọ quả thật là tự ngã, là chính ta, nó sẽ
không gây tổn thương hoặc phiền não cho ta bởi vì thế thường
không ai cố tình làm cho chính mình phải chịu đau khổ. Lại
nữa nếu thọ là tự ngã ắt ta có thể điều khiển, sai
bảo, làm cho nó phải như thế nào tùy theo ý muốn. Giả sử
như "thọ là chính ta" ắt nó không có chiều hướng gây đau
khổ cho ta, và không bao giờ ta có những cảm giác khó chịu.
Nếu quả được như vậy ta có thể xem thọ thật sự là
tự ngã, là chính ta.
Lời
tuyên bố giả định, ṅếu thọ là tự ngã" làm cho ta dừng
lại suy gẫm, xem thọ có quả thật gây đau khổ cho ta hay
không, ta có thể sai bảo thọ phải như thế nào theo ý muốn
của ta không. Sau khi quán chiếu và nghĩ suy cặn kẽ ta thấy
rằng hiển nhiên hầu hết những cảm thọ lúc nào cũng gây
phiền toái, và nó không khởi sanh theo ý muốn của ta mà tùy
duyên, do hoàn cảnh tạo điều kiện.
Quý
vị có thể tự bản thân kinh nghiệm, thấy thọ gây phiền
muộn cho mình như thế nào; quý vị cũng không thể làm cho
sự vật như thế nào vừa theo ý mình bằng cách vui thích
hưởng thọ hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vật thực và xúc
chạm vừa lòng.
Quý
vị sẽ khám phá rằng có thọ khổ nhiều hơn là thọ lạc.
Lý do vì sao ta không thể có thọ lạc như ý muốn là bởi
vì nó không phải là tự ngã, không phải là chính ta. Ðức
Thế Tôn tiếp tục giải thích tại sao thọ không phải là
tự ngã như sau:
"Nầy
chư Tỳ Khưu, thọ quả thật không phải là tự ngã. Vì thọ
không phải là tự ngã, nó có chiều hướng gây phiền não,
và ta không thể sai bảo, 'Thọ của ta phải như thế nầy,
thọ của ta phải không như thế kia'."
Mặc
dầu biết rõ ràng rằng chính thọ gây phiền não và ta không
thể điều khiển hay sai bảo nó phải như thế nào, vẫn có
người còn chắc chắn đặt niềm tin vào tự ngã và những
đam mê dục lạc, còn tín nhiệm nơi những cảm giác thích
thú, còn tin tưởng rằng thọ là tự ngã và vui vẻ thỏa
thích trong đó. Tuy nhiên, khi thận trọng xem xét ta sẽ phát
giác rằng những khoảnh khắc vui thú và hạnh phúc quả thật
là hiếm hoi, so với những trường hợp đau khổ và sầu muộn.
Thọ
Gây Ðau Khổ Như Thế Nào?
Lúc
nào chúng ta cũng phải luôn luôn xoay trở thân mình, điều
chỉnh tư thế, để được tiện nghi. Thiếu tiện nghi, cơ
thể quá căng thẳng, vọp bẻ tay chân, nóng sốt, và đau nhức
khi ở quá lâu trong một tư thế. Ta cần phải xoay qua trở
lại để làm giảm bớt những trạng thái khó chịu ấy. Ðặc
tính gây khó chịu của thọ thật là hiển nhiên, dầu ở
mắt đi nữa, thỉnh thoảng ta cần phải chớp mắt, nháy mắt
hay nhắm mắt lại. Nếu không có những tác động để điều
chỉnh như vậy lắm khi ta cảm nghe không thể chịu được.
Các bộ phận khác của cơ thể cũng có những nhu cầu tương
tợ cần phải điều chỉnh. Trong nhiều trường hợp, mặc
dầu điều chỉnh thân như thế nào, thọ cũng trở nên khó
chịu, gây đau khổ trầm trọng và đưa đến trọng bệnh,
có khi phải chết. Có nhiều trường hợp đau ốm người bệnh
bị đau nhức quá đổi không còn chịu đựng được nữa,
phải tìm cách tự quyên sinh để thoát cơn đau. Ðau đớn
và sầu khổ không phải chỉ hoàn toàn do thọ làm nguyên nhân;
sắc pháp (rūpa) nguồn cội của đau khổ, cũng góp phần tạo
nên tình trạng mất thoải mái. Do đó, trong chương trước,
khi đề cập đến những trạng thái bất an phiền phức do
cơ thể vật chất gây ra Sư có mô tả những loại thọ khác
nhau có thể xem là những khổ đau do thọ uẩn (vedanakkhandha)
gây nên.
Những
nỗi sầu khổ và phiền muộn thuộc về tâm linh chỉ do nơi
thọ (vedanā) đơn độc làm nguyên nhân, sắc không ảnh hưởng
gì trong đó. Khi có một người thân qua đời như cha mẹ,
chồng, vợ, hay con cái quá vãng ắt thọ gây phiền não và
sầu muộn. Mất mát tiền của, tài sản và sự nghiệp, có
thể gây sầu khổ và những nỗi khổ sầu ấy có thể đưa
đến chết chóc. Bất mãn và tuyệt vọng trước những vấn
đề khó khăn của đời sống như phải xa lìa người thân
kẻ yêu, thất bại, không viên mãn hoàn tất một nguyện vọng
theo ý muốn và bao nhiêu hình thức đau khổ khác đều do thọ
(vedanā) gây ra.
Chí
đến những thọ lạc, rất là thoải mái dễ chịu khi nó
còn tồn tại hiện hữu, cũng có thể là nguyên nhân sanh đau
khổ. Sau một thời gian ngắn ngủi ở với ta, khi nó biến
dạng trôi vào dĩ vãng ắt làm cho ta nhớ nhung luyến tiếc
và đau khổ ước mơ. Ta phải mãi mãi cố gắng bảo trì những
hoàn cảnh vui thích. Do đó con người luôn luôn chạy theo rượt
bắt thọ lạc, lắm khi phải dấn thân vào những hoàn cảnh
làm nguy đến tánh mạng. Trong cuộc say mê rượt bắt nầy
lắm khi ta dùng đến những phương tiện bất hợp pháp mà
hậu quả rất tai hại trong kiếp sống, rồi sau khi chết còn
phải sa đọa vào khổ cảnh. Do vậy, những cảm giác có vẽ
hình như thích thú (sukha vedanā) cũng có thể là nguyên nhân
sanh sầu khổ và phiền muộn.
Upekkhā
vedanā, thọ vô ký, những cảm giác không-vui-không-buồn, cũng
như thọ lạc, tạo nên hoàn cảnh thoải mái và hạnh phúc.
Và cũng như thọ lạc, nó đòi hỏi phải liên tục cố gắng
bảo trì, và dĩ nhiên sẽ đưa đến tình trạng mệt mỏi
và phiền phức. Cả hai, thọ lạc và thọ vô ký không tồn
tại lâu dài. Vì bản chất phù du tạm bợ ấy nên nó cần
phải được liên tục và chuyên cần bảo trì. Công phu nầy
là một sự tinh tấn không ngừng, vốn là saṅkhāra dukkha,
hành khổ [*] có nghĩa là khổ vì các pháp được cấu tạo
(saṅkhāra, hành) tự bản chất của nó là khổ. Ðây chỉ
là một chỉ dẫn ngắn về bản chất gây đau khổ của tất
cả ba loại thọ.
Nếu
không có thọ ắt không có kinh nghiệm đau khổ hay thỏa thích
-- vật chất hay tinh thần -- ắt không có khổ. Hãy thử quan
sát một khúc gỗ, một cây trụ, một tảng đá hay một đống
đất: nó không đau khổ vì không có thọ. Dầu ta có chặt
đứt, đánh đập, nghiền nát hay đốt thui, nó cũng không
nao núng. Nhưng tiến trình danh-sắc kết hợp với thọ thì
gây đau khổ bằng nhiều cách. Ðiều nầy cho thấy rõ ràng
rằng thọ không phải là tự ngã, thực thể sống của ta.
[*]
Lời người dịch: Có ba loại khổ: 1. Dukkha dukkhatā, khổ-khổ,
cái khổ hiển nhiên, chỉ cần nhìn quanh ta với cặp mắt
quan sát và tâm suy tư để xác nhận. 2. Viparanamā dukkhatā,
vô thường khổ, cái khổ phát hiện như hậu quả của định
luật vô thường. Viparanamā là thay đổi, biến chuyển, thay
hình đổi dạng. Ðức Phật dạy: Yadaniccaṁ tam dukkhaṁ, nơi
nào có biến đổi (vô thường) nơi ấy có đau khổ. 3. Saṅkhāra
dukkha, hành khổ, đau khổ vì chúng sanh chỉ là sự kết hợp
của hai tiến trình -- tiến trình vật chất và tiến trình
tâm linh -- cả hai đều luôn luôn biến đổi (hành), tức khổ
từ trong sự cấu thành của mình.
Thế
Nào Là Không Thể Ðiều Khiển Thọ?
Ta
không thể điều khiển thọ và thọ cũng không tùng phục
vâng theo ý muốn của ta. Chỉ ghi nhận là ta không thể chỉ
thấy những gì ta muốn thấy và nghe những gì ta muốn nghe,
chỉ hửi những mùi êm dịu, và chỉ nếm những vị ngọt
ngào. Mặc dầu lắm lúc, sau khi mất nhiều cố gắng và công
phu, ta chụp bắt được một vài hình sắc, âm thanh, hay hương,
vị, vừa ý thì những trần cảnh đối tượng ấy rất mong
manh, không tồn tại lâu dài. Ta chỉ có thể thưởng thức
trong một thời gian ngắn, rồi nó biến tan. Như vậy ta không
thể thu xếp hay bảo trì một hoàn cảnh trong đó những sự
vật đáng được ưa thích sẽ tồn tại thường còn như ý
muốn.
Khi
một trần cảnh đối tượng thích thú tan biến thì liền
có những đối tượng không đáng được ưa thích thế vào,
và dĩ nhiên, gây đau khổ. Ta đã giải thích rằng những âm
thanh không đẹp ý làm khó chịu nhiều hơn là những hình
sắc không vừa lòng; mùi hôi thúi làm khó chịu nhiều hơn
là tiếng động ồn ào, và nếm những vị mà mình không thích
càng làm khó chịu hơn nữa. Hơn thế nữa, những chất độc
cũng có thể làm chết. Tệ hại hơn tất cả là xúc giác
khó chịu đựng: bị tai nạn gây thương tích, bị đâm chém,
bị hỏa hoạn, hay lâm trọng bệnh, nỗi đau khổ thật rất
sâu đậm, đến đổi phải than khóc kêu la rên siết đến
chết. Ðó là những thọ khổ mà ta phải giữ gìn không để
xảy diễn. Cái gì mà mình không thể điều khiển chắc chắn
là không phải tự ngã. Như vậy thọ ắt không phải là tự
ngã và như vậy nếu ta bám níu vào, xem đó là chính ta, là
thể chất sống bên trong chúng ta, là sai lầm, không thích
nghi.
Ðến
đây Sư đã mô tả những thọ cảm được kinh nghiệm trong
cảnh người. Những loại thọ trong bốn cảnh khổ càng khủng
khiếp hơn nhiều. Những con thú như bò, trâu, gà và heo phải
đối đầu hầu như không ngừng nghỉ với những nỗi thống
khổ tận cùng mà không ai giúp đỡ để làm giảm suy những
khổ nhọc ấy. Chúng sanh trong cảnh ngạ quỷ (Peta, quỷ đói)
phải chịu đau khổ càng nhiều hơn loài thú, nhưng trong cảnh
địa ngục (Niriya) thì đau khổ nhiều nhất. Ta không thể
thản nhiên tự đắc rằng mình không có gì dính dáng đến
bốn cảnh khổ. Cho đến khi chứng đắc Ðạo Quả Tu Ðà
Huờn, lúc nào con người cũng có thể phải đối đầu với
niềm đau nỗi khổ của những cảnh thấp kém.
Vì
thọ có chiều hướng gây đau khổ trong mỗi kiếp sinh tồn,
ta không thể xem đó là tự ngã hay phần nòng cốt bên trong
đời sống, và ta không thể cản ngăn không cho thọ khổ phát
sanh. Thọ khổ tự nó phát sanh không thể tránh. Những nỗi
khổ sầu mà chúng ta không muốn, cũng tự nhiên tự nó đến
với ta y như vậy. Tất cả những sự việc ấy chỉ rõ bản
chất không thể kiểm soát của thọ. Mỗi chúng sanh phải
đương nhiên chấp nhận loại thọ của mình như một hiện
tượng mà mình không thể kiểm soát, và do đó thọ không
phải là tự ngã hay một thể chất nguyên vẹn nằm bên trong
chính mình.
Như
đã có lời dạy trong Kinh Ðiển, những thọ mà chúng ta cảm
nhận trong thân có chiều hướng gây đau khổ, và ta không
thể điều khiển hay kiểm soát. Do đó rõ ràng thọ không
phải là tự ngã, hay thể chất nằm bên trong ta. Dầu sao,
con người trong dân gian thường chấp thủ, bám chặt vào niềm
tin, "chính tôi đau khổ" -- khi kinh nghiệm thọ khổ; hay "chính
tôi hoan hỷ thích thú" -- khi kinh nghiệm thọ lạc." Rất khó
gội rửa hoàn toàn hay loại trừ tận gốc rễ sự chấp thủ
nầy. Niềm tin tưởng vào tự ngã, vào một cái "ta", một
thực thể sống, nằm bên trong chúng sanh, đã đâm chồi mọc
rễ ăn sâu vào tâm thảm từ lâu, chỉ có thể được loại
trừ bằng cách tự cá nhân chứng nghiệm bản chất thật
sự của thọ. Và sự chứng nghiệm nầy có thể khởi sanh
do công trình quán chiếu và suy niệm đúng theo Satipaṭṭhāna
vipassanā, pháp hành Tứ Niệm Xứ Minh Sát, hay Trung Ðạo, như
Ðức Thế Tôn truyền dạy. Giờ đây chúng ta hãy thảo luận
đến phương cách làm thế nào có thể loại trừ trạng thái
chấp thủ vào tự ngã bằng pháp quán thọ.
Thọ
Quán Niệm Xứ
Pháp
hành thiền minh sát, vipassanā meditation, đã được trình bày
vắn tắt trong chương I. Vị hành giả thận trọng ghi nhận
những tác động phồng, xẹp, ngồi v.v... như đã được mô
tả, sẽ ghi nhận đúng lúc những cảm giác kém tiện nghi
như đau nhức, căng thẳng hay nóng bức. Hành giả phải gom
tâm chăm chú an trụ nơi những thọ cảm khác nhau ấy vào
lúc nó vừa khởi sanh và niệm thầm, "đau, đau", "căng cứng,
căng cứng", ṅóng, nóng" tùy trường hợp. Vào lúc hành giả
còn sơ cơ, tâm an trụ còn non nớt, chưa được vững mạnh,
những cảm giác khó chịu có thể ngày càng tăng trưởng,
nhưng phải chịu đựng cơn đau nhức kém tiện nghi nầy càng
lâu càng tốt, cứ tiếp tục niệm, ghi nhận cảm giác ngay
vào lúc nó khởi phát. Khi tâm an trụ vững chắc, cảm giác
khó chịu sẽ dần dần thuyên giảm và bắt đầu tan biến.
Với tâm an trụ thật vững mạnh, trạng thái đau nhức khó
chịu bỗng nhiên chấm dứt như mình lấy tay cầm vứt nó
đi ngay khi đang ghi nhận nó, và không bao giờ còn trở lại
gây phiền phức cho người hành thiền.
Chúng
ta thấy những thí dụ theo đó thọ chấm dứt nhanh chóng trong
câu chuyện Ngài Mahā Kassapa và những vị khác khi lâm bệnh
được nghe những lời dạy của Kinh Thất Giác Chi (Bojjhaṅga
Sutta).
Tuy
nhiên, trước khi an trụ tâm vững chắc, người hành thiền
thấy rằng cảm giác đau đớn tan biến ở một nơi chỉ để
phát sanh ở một nơi khác, dưới một hình thức mới. Khi
cảm giác khó chịu được thận trọng ghi nhận thì nó tan
biến, nhường chỗ cho một loại thọ khổ khác khởi sanh
ở một nơi khác. Khi hành giả chuyên cần giữ chánh niệm,
liên tục ghi nhận hiện tượng đau khổ biến tan và phát
sanh trở lại, hoại rồi diệt, diệt rồi sanh, trở đi trở
lại như vậy thì sực tỉnh ngộ, "thọ luôn luôn gây đau
khổ, không thể kiểm soát thọ khổ, không thể ngăn ngừa
đừng để cho nó phát sanh. Cả hai, thọ lạc và thọ khổ
không phải là tự ngã, không phải là thực chất của ta bên
trong." Ðó là trí tuệ thật sự phát sanh do công phu quán niệm
bản chất vô ngã của thọ.
Vị
hành giả đã nhận thấy sự tan biến của thọ trong khi quán
niệm, hồi nhớ lại bản chất khó chịu đựng của nó khi
còn tồn tại hiện hữu; vị ấy biết rằng thọ nầy tan
biến không phải vì mình muốn nó tan biến, hay vì nó tuân
theo lời sai bảo của mình, mà là hậu quả của những điều
kiện cần thiết do năng lực tinh thần của tâm an trụ. Quả
thật không thể điều khiển nó. Như vậy người hành thiền
chứng ngộ rằng thọ, dầu thọ lạc hay thọ khổ, là một
tiến trình thiên nhiên tự nó phát sanh. Thọ không phải là
tự ngã hay bản thể của ta nằm bên trong. Hơn nữa tình trạng
khởi phát và tan biến của thọ như được ghi nhận, cho thấy
bản chất vô ngã của nó.
Khi
tiến đến giai đoạn udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, vị
hành giả nhận thấy rằng pháp hành ghi nhận những hiện
tượng của mình tiến triển dễ dàng, thoải mái và không
còn cảm nghe đau nhức nữa. Ðây là sự phát hiện của loại
thọ đặc biệt thích thú mà hành giả không thể kéo dài
lâu, dầu muốn lắm cũng không được. Khi tâm giảm bớt an
trụ và trở nên yếu ớt, thọ lạc thích thú ấy cũng giảm
dần và có thể không trở lại, mặc dầu hành giả mong muốn
cách nào. Chừng ấy chân lý dần dần rọi sáng cho hành giả
thấy rằng thọ không thuộc quyền sai khiến, không tuân theo
ý muốn của mình, và như vậy không phải là tự ngã hay tinh
chất bên trong mình. Chừng ấy tự kinh nghiệm bản thân vị
hành giả chứng ngộ bản chất vô ngã của thọ.
Do
sự chấm dứt nhanh chóng mỗi khi ghi nhận hành giả cũng nhận
thấy hiển hiện rõ ràng bản chất vô ngã của thọ.
Vào
thời kỳ còn sơ cơ, hành giả bị đau, nhức, căng thẳng,
ngứa ngáy hay nóng bức. Thỉnh thoảng người hành thiền cũng
cảm nghe chán nản, thất vọng, buồn phiền, lo sợ, hay ghê
tởm. Không nên bỏ cuộc mà cứ tiếp tục chuyên cần quán
niệm những thọ cảm khó chịu ấy. Hành giả sẽ hiểu biết
rằng trong khi thọ khổ hiện hữu thì thọ lạc không phát
sanh.
Trong
lúc hành thiền đôi khi hành giả kinh nghiệm những cảm giác
rất thích thú, cả vật chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn như
khi nghĩ đến một diễn biến vui thích thì cảm nghe hoan hỷ.
Nên giữ chánh niệm, liên tục ghi nhận thọ cảm thích thú
ấy ngay lúc nó khởi sanh. Hành giả sẽ hiểu biết rằng trong
khi thọ lạc hiện hữu thì thọ khổ không khởi sanh. Một
cách tổng quát hành giả lúc nào cũng ghi nhận sự phát sanh
và hoại diệt của tiến trình danh và sắc thông thường,
giống như mình ghi nhận cử động phồng lên xẹp xuống của
bụng, không khổ không lạc. Hành giả ghi nhận những trường
hợp chỉ có thọ vô ký là nổi bật, và do đó, hiểu biết
rằng khi thọ vô ký phát sanh thì cả hai, thọ khổ và thọ
lạc, không hiện hữu. Với sự hiểu biết nầy mà chính mình
tự chứng nghiệm, hành giả chứng ngộ rằng thọ chỉ tồn
tại nhất thời và nhanh chóng tan biến, quả thật là phù
du tạm bợ, ắt không phải là tự ngã, một bản ngã trường
tồn.
Nơi
đây Sư muốn thuật lại câu chuyện trong Kinh Dīghanaka Sutta,
một hình ảnh tốt để thuyết minh rõ ràng sự giác ngộ
có thể đến như thế nào. Nhân vật đóng vai trò quan trọng
trong câu chuyện là Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất). Chúng ta
hãy bắt đầu tường thuật câu chuyện làm thế nào Ðức
Sāriputta (Xá Lợi Phất) thành tựu tuệ giác cao siêu nhất.
|