|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Hành
không phải là tự ngã
Ý
nghĩa của saṅkhāra (hành) theo bài kinh nầy
Hành
uẩn cưỡng chế bằng cách nào
Câu
chuyện một ngạ quỉ bị nhiều mũi nhọn đâm chích
Sự
chứng nghiệm lý vô ngã đến với ta như thế nào
-III-
TƯỞNG
VÀ HÀNH
-ooOoo-
Saññā
bhikkhave anattā saññā ca h'idaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ
saññā ābādāya saṁvatteyya labbhetha ca saññāya 'evaṁ me saññā
hotu, evaṁ me saññā mā ahosīti.' Yasmā ca kho bhikkhave saññā
anattā tasmā saññā ābādhāya saṁvattati. Na ca labbhati saññāya
evaṁ me saññā hotu evaṁ me saññā mā ahosīti.
Nầy
chư Tỳ Khưu, saññā, tưởng, không phải là tự ngã...."
Tưởng
có sáu loại: 1. Tưởng sanh khởi do nhãn xúc. 2. Tưởng sanh
khởi do nhĩ xúc. 3. Tưởng sanh khởi do tỷ xúc. 4. Tưởng
sanh khởi do thiệt xúc. 5. Tưởng sanh khởi do thân xúc. 6.
Tưởng sanh khởi do ý xúc.
Mỗi
khi một vật được thấy, được nghe, được xúc chạm, hay
được hiểu biết, thường chúng ta nghĩ rằng, "Chính ta tri
giác, vật ấy được tri giác, hay được ta nhớ đến." Khi
thấy một đối tượng ta nhớ ra đó là một người, nam hay
nữ, hay một vật đã được biết vào một lúc nào, ở một
nơi nào. Khi nghe một âm thanh, hửi một mùi, nếm một vị
hay nghĩ đến một việc cũng vậy, ta nhớ lại tiếng động
ấy, mùi ấy v.v... là gì. Rồi ta lầm tưởng tiến trình tri
giác hay hồi nhớ ấy là chính ta: "Chính ta nhớ, trí nhớ
của ta tốt lắm." Ðức Thế Tôn giải thích ở đây rằng
quan niệm như thế là sai lầm, trong tiến trình hồi nhớ không
có gì là cá nhân hay của ta mà chỉ là những hiện tượng
không có thực thể vững chắc, không phải là ta.
Ðức
Thế Tôn tiếp tục giải thích rằng tưởng uẩn, hay tri giác,
saññā, không phải là ta như sau:
"Nầy
chư tỳ khưu, saññā, tưởng, không phải là tự ngã. Nếu
tưởng là tự ngã ắt nó không có khuynh hướng gây đau khổ
hay phiền phức khó chịu cho ta và ta ắt có thể kiểm soát
tưởng như sau: 'Hãy để tưởng của tôi như thế nầy (luôn
luôn thích thú, dễ chịu), hãy để tưởng của tôi không
như thế kia (khó chịu, phiền phức)'."
Nếu
tưởng là một thực thể sống, là thể chất của ta bên
trong, thì không có lý do gì mà nó cưỡng chế, gây phiền
phức khó chịu cho ta -- thông thường người ta không làm tổn
hại và tạo phiền muộn cho chính mình -- và ta có thể điều
khiển, thu xếp để chỉ hay biết, hay chỉ hồi nhớ những
gì tốt đẹp vừa ý. Nhưng vì tưởng uẩn luôn luôn cưỡng
chế ta, không tùng phục, không chiều theo ý muốn của ta,
nó không phải là tự ngã.
"Nhưng
nầy chư tỳ khưu, trong thực tế, tưởng không phải là tự
ngã. Nó cưỡng chế ta và không ai có thể sai bảo: 'Tưởng
của tôi phải như thế nầy, tưởng của tôi phải không như
thế kia'."
Tưởng
uẩn có những sắc thái tốt đẹp của nó. Nhận ra những
đặc tính của sự vật mà mình đã biết quả thật là hữu
ích. Trí nhớ bền dai quả thật hữu dụng. Hồi nhớ những
sự việc đã xảy ra và ghi nhớ lâu dài những gì mình đã
thâu thập học hỏi quả thật là một chức năng tốt của
tưởng.
Nhưng
hồi nhớ, đem trở lại vào tâm những kỷ niệm buồn phiền,
ghê tởm và những hình ảnh khủng khiếp hải hùng là sắc
thái xấu của tưởng. Nó gây nên tâm trạng căng thẳng và
do đó cưỡng chế, làm cho ta khó chịu. Vài người cảm nghe
rất đau khổ khi trí óc vởn vơ đi vào quá khứ rồi mang
trở về những kỷ niệm của người thân đã quá vãng, con
cái, chồng hay vợ đã qua đời, hoặc những tai ương về
tình trạng tài chánh đã xảy đến cho mình. Những kỷ niệm
diên trì dai dẳng ấy đem lại sầu khổ và khiếp đảm kinh
hoàng, chỉ tan dần và biến dạng khi những ý nghĩ viễn vông
trong quá khứ ấy chấm dứt.
Như
vậy, saññā, tưởng, vốn là cơ năng của sự nhận ra và
hồi nhớ, quả thật là áp bức. Lúc nào tưởng uẩn còn
đi vào quá khứ rồi đem trở về những kỷ niệm tang tóc
hay tai ương tài chánh thì sầu khổ và than van còn tạo cảnh
đau khổ trầm trọng có thể đưa đến chết chóc. Ðó là
đường lối mà tưởng uẩn đem trở vào tâm những kinh nghiệm
buồn phiền trong quá khứ .
Trong
khi ăn bỗng nhiên nhớ lại một vài vật nhơ nhớp, làm cho
bửa cơm mất ngon. Nhớ đến một xác chết vừa thấy trong
ngày có thể làm cho đêm ngủ không an giấc. Vài người tưởng
tượng những hoàn cảnh hiểm nguy và đặt mình vào đó, rồi
đâm ra hết sức lo sợ. Ðó là như thế nào sự tưởng nhớ
làm khó chịu, cưỡng chế ta bằng cách đi vào quá khứ rồi
đem trở về hiện tại những sự việc đau buồn. Ðó không
phải là tự ngã mà chỉ là những hiện tượng phát sanh do
điều kiện, tùy duyên sanh khởi. Ta không thể thu xếp sự
việc theo ý muốn để chỉ tưởng nhớ những kinh nghiệm
đem lại lợi lạc và hữu ích, và loại trừ những kinh nghiệm
làm chán nản khổ đau. Chúng ta không thể điều khiển, sai
bảo tưởng uẩn phải như thế nào, và như vậy nó không
phải là tự ngã, không có một thực thể sống, mà chỉ là
những hiện tượng không có thể chất, phát sanh tùy thuộc
nhân duyên.
Theo
kinh điển, tưởng (sự tri giác) của một người có tánh
chất cưỡng chế, ta không thể điều khiển và sai bảo nó
phải như thế nào theo ý muốn của ta. Như vậy hiển nhiên,
tưởng không phải là tự ngã, không phải là phần nòng cốt
bên trong ta, hay một thực thể sống. Nhưng thông thường,
khi hồi nhớ những kinh nghiệm quá khứ người ta nghĩ rằng,
"Chính ta đã tàng trử những kinh nghiệm ấy trong tâm; rồi
chính ta đã nhớ lại. Chính một cái 'Ta' đã tàng trữ, giữ
nó lại, và bây giờ đem nó ra trong tâm." Do đó người ta
ôm ấp dưỡng nuôi niềm tin rằng có một cá nhân, một tự
ngã, tàng trữ và hồi nhớ những kinh nghiệm quá khứ. Tin
tưởng sai lầm như vậy vì thiếu chánh kiến, không thận
trọng ghi nhận sự việc ngay vào lúc sự hay biết ở giác
quan (ngũ quan thức) sanh khởi, và bởi vì chưa nhận thức
bản chất thật sự của những hiện tượng xuyên qua tuệ
minh sát (vipassanā ñāṇa). Khi ta kiên trì chú niệm và thật
sự nhận thấy trạng thái liên tục phát sanh và hoại diệt
của những hiện tượng hay biết qua ngũ quan (ngũ quan thức)
bằng tuệ minh sát, chừng ấy ta sẽ tự mình chứng nghiệm
sáng tỏ rằng tưởng uẩn cũng là một hiện tượng thiên
nhiên, mãi mãi phát sanh và hoại diệt.
Nơi
đây một câu hỏi có thể được nêu lên: Nói rằng bản
chất thiên nhiên của tưởng uẩn là vô thường, luôn luôn
biến chuyển, vậy làm thế nào ta có thể hồi nhớ những
sự việc đã qua? -- Năng lực hồi nhớ của chặp tưởng
trước được chuyển sang qua cho chặp tưởng sau kế đó.
Vì khả năng hồi nhớ nầy tăng trưởng khi được thâu nhận
ở chặp tưởng sau, vài người có thể còn nhớ lại tiền
kiếp. Ðó là như thế nào chặp tưởng trong luồng hộ kiếp
(bhavaṅga) hay trong chặp tử tâm (cuti viññāṇa) của kiếp
quá khứ chấm dứt và khởi sanh trở lại với năng lực hồi
nhớ được tăng cường trong thức tái sanh (paṭisandhi viññāṇa)
và luồng hộ kiếp ở kiếp hiện tại. Chính nhờ sự chuyển
sang "năng lực hồi nhớ" từ chặp tưởng trước qua chặp
tưởng sau kế đó mà ta có thể hồi nhớ những gì có tánh
cách thiện và thích thú cũng như những gì bất thiện và
không vừa lòng. Những kinh nghiệm của ngày hôm trước, dầu
ta không hề nghĩ đến, đôi khi có thể trồi lên trở lại
nổi bật. Khi tâm an trụ được vững chắc mạnh mẽ, người
hành thiền minh sát Satipaṭṭhāna có thể hồi nhớ những
diễn biến trong thời thơ ấu. Hành giả nên ghi nhận ngay
lúc nó vừa khởi sanh.
Tâm
ăn năn hối cải vì một điều sai lầm hay một khuyết điểm
trong quá khứ có thể dẫn đến lo âu và phóng dật trong khi
ngồi thiền, và có thể trở thành chướng ngại lớn lao,
làm trở ngại tiến bộ trong công phu trau giồi và phát triển
tâm định và tuệ minh sát. Ta phải loại trừ bằng cách giữ
chánh niệm, ghi nhận liền khi nó vừa khởi sanh. Bằng cách
ấy ta đè nén chặp tâm sở tưởng, hồi nhớ diễn biến
đã qua và làm cho ta lo âu phóng dật. Ðiều nầy cũng cho thấy
rằng tưởng không phải là tự ngã. Như đã được giải
thích trong bài giảng trước, có bốn cách chấp thủ vào tự
ngã, và trong bốn cách ấy tưởng uẩn liên quan đến ba: sāmi
attā, nivāsī attā và kāraka attā.
Nghĩ
rằng có thể kiểm soát tưởng, có thể hồi nhớ những chuyện
trong quá khứ theo ý muốn và không nhớ đến nếu không muốn,
là sāmi attā, chấp vào tự ngã kiểm soát, tức tin rằng có
một tự ngã, một cái "ta", kiểm soát tiến trình hồi nhớ.
Kinh Anattalakkhaṇa Sutta bác bỏ quan niệm chấp ngã ấy và
dạy rằng ta không thể nói, "Tưởng phải như thế nầy, tưởng
phải không như thế kia."
Nghĩ
rằng có một tự ngã thường xuyên hiện hữu trong thân, làm
nhiệm vụ hồi nhớ những chuyện quá khứ là nivāsī attā,
chấp vào tự ngã liên tục. Chấp thủ nầy có thể được
loại trừ bằng cách giữ chánh niệm, ghi nhận mỗi hiện
tượng tâm linh ngay vào lúc nó vừa khởi sanh. Niệm như vậy
ta tự mình nhận thức rằng trí nhớ liên tục khởi sanh rồi
tức khắc tan biến. Bằng cách ghi nhận những gì đã xảy
diễn trong kiếp sống nầy, ngay vào lúc nó khởi sanh ở ý
môn, ta cũng nhận thức rằng không có chi như sự tưởng nhớ,
mà thường còn. Chỉ có những hiện tượng luôn luôn đổi
mới không ngừng sanh và diệt. Thực nghiệm nầy loại trừ
niềm tin có một tự ngã thường còn hay một thực thể sống
bên trong thân ta, làm nhiệm vụ truy hoài, hồi nhớ hay nhận
ra.
Nghĩ
rằng chính ta, hay tự ngã, làm phận sự hồi nhớ hay nhận
ra là kāraka attā, chấp vào tự ngã chủ động, và chấp thủ
nầy
cũng có thể được loại trừ bằng cách giữ chánh niệm.
Khi
tưởng nhớ hình ảnh hay âm thanh, hành giả quán sát xem những
hình ảnh và âm thanh ấy khởi sanh và tan biến như thế nào.
Khi nhận thấy rằng sự tưởng nhớ đến hình ảnh hay âm
thanh luôn luôn khởi sanh rồi tan biến, hành giả thực nghiệm
rằng tưởng uẩn chỉ là một hiện tượng tâm linh mãi mãi
lặp đi lặp lại chớ không phải là hành động hay việc
làm của một tự ngã hay thực thể sống nào bên trong thân.
Và cũng trùng hợp với lời dạy trong kinh Vô Ngã Tướng,
Anattalakkhaṇa Sutta, ta không thể điều khiển hay làm thế
nào để chỉ mãi mãi tưởng nhớ những điều thích thú,
tinh khiết, có tánh cách thiện, và không bao giờ nhớ đến
những gì bất thiện và không vừa lòng. Vì nhận thấy rằng
không thể kiểm soát và điều khiển trí nhớ theo ý mình
hành giả nhận thức rằng trí tưởng nhớ không phải là
tự ngã hay thực thể sống, mà chỉ là một tiến trình thiên
nhiên khởi sanh do điều kiện, luôn luôn tự đổi mới và
tan biến. Ðức Thế Tôn ban dạy Kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa
Sutta, nhằm mục đích loại trừ sự chấp thủ vào tự ngã,
attā, bằng cách tự cá nhân mình chứng ngộ bản chất thật
sự của các uẩn (khandhas).
Nơi
đây một thắc mắc có thể được nêu lên: Có sự khác biệt
nào giữa sự hiểu biết của thời hiện đại về chức năng
của tri giác, như trí nhớ, và năng lực hồi nhớ của sati,
niệm, như được mô tả trong kinh Tứ Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna
Sutta? Có sự khác biệt rộng lớn như cả một bầu trời
giữa hai ý niệm; trong thực tế có thể nói rằng mục đích
và đối tượng của hai ý niệm ấy hoàn toàn đối nghịch
với nhau. Tri giác nhận thức đối tượng để giữ lại trong
trí nhớ, nhằm mục đích nhớ trở lại trong tương lai; đối
tượng có thể là hình sắc hay điều kiện của đối tượng
được ghi nhận.
Niệm,
theo phương pháp Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) chỉ ghi nhận
tình trạng trôi qua của những hiện tượng vật lý (sắc)
và tâm linh (danh), nhằm chứng nghiệm đặc tướng vô thường,
bất toại nguyện và vô ngã.
Hành
Không Phải Là Tự Ngã
Saṅkhārā
bhikkhave anattā. Saṅkhārā ca h' idaṁ bhikkhave attā abhavissaṁsu
nayidaṁ saṅkhārā ābādhāya saṁvatteyyuṁ labbhetha ca saṅkhāresu
evaṁ me saṅkhārā hontu evaṁ me saṅkhārā mā ahesun'ti. Yasmā
ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā, tasmā saṅkhārā ābādhāya
saṁvattanti; na ca labbhati saṅkhāresu 'evaṁ me saṅkhārā hontu,
evaṁ me saṅkhārā mā ahesun'ti.
Nầy
chư Tỳ Khưu, hành (saṅkhārā) không phải tự ngã...."
Nơi
đây nên ghi nhận rằng có hai loại hành (saṅkhāras): sự
vật được cấu tạo, và sự vật cấu tạo. Các sự vật
được cấu tạo là những uẩn sanh khởi do nguyên nhân như
kamma (nghiệp, hay hành động có tác ý), tâm, điều kiện thời
tiết và vật thực.
Tức
khắc sau khi thức tái sanh chấm dứt, những hiện tượng danh
và sắc khởi sanh như hậu quả của nghiệp (kamma). Vipāka
(quả) là những loại thức và các tâm sở đồng phát sanh
như hậu quả của nghiệp (kamma) và ý căn (hadāya vatthu) cùng
với những phần nhạy của sắc pháp khởi sanh do nghiệp như
mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, sanh khởi cùng một thế ấy.
Ðó là những sự vật được cấu tạo, hậu quả của những
sinh hoạt tạo nghiệp (hành), và những sự vật ấy được
gọi là hành quả, vipāka saṅkhāras, sanh khởi do nghiệp tạo
điều kiện.
Cùng
thế ấy, những đặc chất của sắc pháp sanh khởi do tâm,
như co tay vào, duỗi tay ra, đi, đứng, di chuyển, cử động,
ngồi, nói, cười v.v... được gọi là hậu quả của hành
(vipāka saṅkhāras) sanh khởi do tâm. Tâm và các tâm sở đồng
phát sanh tương quan tạo duyên và được tạo duyên lẫn nhau.
Như vậy có những hành, saṅkhāras, xem như nguyên nhân tạo
điều kiện và những hành, saṅkhāras, là hậu quả.
Ðặc
chất vật lý do thời tiết tạo điều kiện là những hậu
quả của hành do điều kiện thời tiết tạo duyên. Những
đặc tánh vật chất khởi sanh do vật thực là hành quả do
vật thực tạo duyên.
Sau
cùng, tất cả những trạng thái tâm kế tiếp và các tâm
sở đồng phát sanh là hành quả (vipāka saṅkhāras), tùy thuộc
nơi những điều kiện tâm linh trước đó và những tâm sở
đồng phát sanh để sanh khởi. Tất cả những uẩn khởi sanh
như thế do kamma (nghiệp), tâm, điều kiện thời tiết và
vật thực là hành quả, những sự vật được cấu tạo.
Ðiều nầy được tóm tắt thâu gọn trong công thức quen thuộc:
Sabbe
saṅkhāra aniccā; sabbe saṅkhāra dukkhā.
Tất
cả các hành (vật được cấu tạo) đều vô thường; tất
cả các hành đều đau khổ, dukkha. [*]
[*]
Những hành, hay vật được cấu tạo, saṅkhāras, tức những
sự vật tự nó không hiện hữu, mà phải có gì khác tạo
điều kiện (duyên) mới hiện hữu.
Những
vật ấy là sắc uẩn và danh uẩn biểu hiện nơi giác quan,
năm nhóm bám níu mà ta phải nhận thức bằng tuệ minh sát
(vipassanā ñāṇa) là vô thường, bất toại nguyện và vô
ngã. Trong công thức trên Ðức Thế Tôn dạy ta nên thấy nó
như vậy. Ðể có thể thấy được dưới ánh sáng như vậy,
ta phải cẩn trọng ghi nhận mỗi khi những uẩn nầy phát
hiện. Trong khi quán sát, vì tâm an định càng tăng cường
vững chắc, ta hay biết rằng các uẩn không ngừng khởi sanh
và tan biến. Trùng hợp với lời dạy của Bản Chú Giải,
Hutvā abhāvato -- Nó là vô thường vì khi vừa phát sanh liền
hoại diệt" -- và udayabbaya paṭipīḷanato -- Nó là đáng sợ,
vì làm cho ta khó chịu bằng cách luôn luôn sanh và diệt."
Ðó là suy niệm đúng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn.
Có
những người làm tổn hại Phật Pháp bằng cách dạy nghịch
hẳn những gì Ðức Phật dạy. Trong công thức trên -- sabbe
saṅkhāra anicca -- họ không dạy rằng danh từ saṅkhāra có
nghĩa là "những sự vật được cấu tạo" như được giải
thích ở trên mà theo họ, có nghĩa là "những sinh hoạt". Như
vậy, theo họ, công thức trên có nghĩa "Tất cả những sinh
hoạt là đau khổ." Do đó họ khuyên dạy chống lại tất
cả mọi sinh hoạt như bố thí, trì giới và hành thiền. Họ
nói rằng các sinh hoạt ấy chỉ tạo đau khổ, dukkha. Họ
khuyên nên giữ tâm để yên như vậy. Những người không
hiểu biết và không nhiệt tâm chuyên cần, sẵn sàng chấp
nhận lời khuyến dạy trên, nhưng đối với những ai khác,
dầu ít hiểu biết giáo pháp, thật hiển nhiên là nghịch
hẳn với những lời dạy của Ðức Phật. Chấp nhận những
lời dạy tương tợ có nghĩa là bác bỏ giáo huấn của Ðức
Thế Tôn. Một khi bác bỏ giáo huấn của Ðức Phật tức
nhiên ta đã ra ngoài Phật Giáo, và đó là điều đáng lo ngại.
Trong kinh điển Pāli, sabbe saṅkhāra dukkhā, danh từ saṅkhāra,
hành, có nghĩa là "những sự vật được cấu tạo", là quả
của những điều kiện quyết định, không phải là "những
sự vật cấu tạo", không phải là "sinh hoạt" hay "cố gắng".
Tất cả những saṅkhāras, hành, tức những sự vật được
cấu tạo, phải được suy niệm là vô thường và đau khổ.
Diễn
dịch rằng saṅkhāra ở đây là những sinh hoạt tạo thiện
nghiệp là sai. Ðiều cần phải làm ở đây là thận trọng
ghi nhận và quán sát tất cả các uẩn trong thân cho đến
khi thấy rõ bản chất thật sự của nó và phát triển tâm
buông xả, không chấp thủ vào nó.
Ý
Nghĩa Của Saṅkhāra (Hành) Theo Bài Kinh Nầy
Danh
từ
saṅkhāra, hành, như được mô tả đến đây -- "sự vật
được cấu tạo", khởi sanh do kamma (nghiệp), tâm, điều kiện
thời tiết và vật thực -- không đúng với ý nghĩa của danh
từ trong bài Kinh nầy. Theo bài Kinh nầy, saṅkhāra hàm ý là
những "sự vật cấu tạo", một trong năm uẩn, tức hành uẩn,
hay sinh hoạt tâm linh, và chính những sinh hoạt tâm linh nầy
tạo nghiệp, kamma.
Phẩm
Khandhavagga trong bộ Saṁyutta Nikāya, Tạp A Hàm, giải thích
như sau: cái gì đưa đến sinh hoạt của thân, khẩu, ý là
saṅkhāra, hành uẩn. Trong năm uẩn, sắc uẩn có đặc tính
biến chuyển đổi thay hay trở thành một cái gì khác do những
hoàn cảnh đối nghịch. Sắc là vô tri giác, không thể tự
mình đưa đến sinh hoạt hay biến đổi mà chỉ là một khối
bất động. Chính sinh hoạt của hành uẩn diễn đạt ra ngoài
bằng những cử động của cơ thể vật chất, và cho thấy
hình như thân làm. Thọ uẩn kinh nghiệm những thọ cảm (vedanā),
thọ lạc, thọ khổ, hay thọ vô ký. Chính thọ tự nó không
tạo nên hành động thiết thực. Tưởng uẩn cũng không thể
tạo nên hành động mà chỉ hay biết, nhận ra hay hồi nhớ
sự vật, giống như người thơ ký trong văn phòng, ghi nhận
dữ kiện để về sau tham khảo. Thức uẩn chỉ hay biết,
cảm nhận, thấy hình sắc, nghe âm thanh v.v... không tạo hành
động.
Chính
hành uẩn saṅkhāra làm phận sự đưa đến hành động bằng
thân, khẩu hay ý, như đi, đứng, ngồi, nằm, co vào, duỗi
ra, di động, cười, nói, suy nghĩ, nhìn hay lắng nghe. Ý muốn
đi, muốn đứng, muốn ngồi, hay muốn ngủ là chức năng của
hành uẩn (saṅkhāra). Tất cả ba loại hành động, bằng thân,
khẩu, và ý đều do hành uẩn saṅkhāra thúc đẩy và sắp
xếp.
Nghĩ
rằng tất cả những sinh hoạt ấy đều do một tự ngã thực
hiện là tà kiến thấy cái ta trong hành uẩn, và được biết
là chấp thủ vào "tự ngã chứng nghiệm", kāraka attā.
Nghĩ
rằng tự ngã thực hiện tất cả những sinh hoạt, an trú
thường xuyên trong thân như một thực thể sống, là tà kiến
nivāsī attā, chấp thủ vào "tự ngã liên tục".
Nghĩ
rằng tự ngã nầy, tức cái thực thể sống trong thân ta,
có thể tự ý hoạt động, rằng những hành động của nó
tùy thuộc nơi ý muốn của ta là sāmi attā, chấp thủ vào
"tự ngã kiểm soát".
Ta
bám vào hành uẩn bằng cả ba lối chấp thủ. Tuy nhiên trong
thực tế không có tự ngã, không có một thực thể sống
để bám vào, chỉ có những tiến trình thiên nhiên diễn tiến
tùy duyên, theo những điều kiện và những trường hợp của
chính nó. Ðức Thế Tôn dạy rằng việc làm của hành uẩn,
saṅkhāra, không phải là hoạt động của một thực thể
sống. Theo quan điểm thông thường, hình như có một thực
thể sống thực hiện những hành động đi, đứng, và ngồi,
nhưng Ðức Thế Tôn bác bỏ sự tin tưởng ấy như sau:
"Nầy
chư Tỳ Khưu, nếu hành là tự ngã, là chính ta, ắt nó không
gây đau khổ cho ta và ta có thể sai bảo, 'Hành phải như thế
nầy (tất cả đều có tánh cách thiện), hành phải không
như thế kia (bất thiện)' và có thể thu xếp hành theo ý muốn
của ta."
Saṅkhāras,
hành, là những trạng thái tâm hay tâm sở do cetanā, tác ý,
dẫn đầu. Có tất cả năm mươi hai tâm sở. Ngoài hai tâm
sở thọ và tưởng, còn lại năm mươi, chung hợp cấu thành
hành uẩn, saṅkhārakkhandha. Trong những bài giảng của tạng
Kinh, chỉ có cetenā, tác ý, là đặc biệt tiêu biểu cho những
sinh hoạt của hành, saṅkhāra, nhưng theo Abhidhamma, tạng Luận
thì còn có những tâm sở khác cũng có thể tạo nghiệp (kamma),
như sự chú ý (manasikāra), tâm sở tầm (vitakka), sát (vicāra),
phỉ (pīti), tham (lobha), sân (dosa), si (moha), không-tham, không-sân
và không-si. Năm mươi loại tâm sở nầy của hành uẩn cũng
có nhiệm vụ đưa đến những sinh hoạt như đi, đứng, ngồi,
ngủ, co vào, duỗi ra, cười, và nói. Những hành động nầy
cũng như những sinh hoạt tâm linh khác như suy tư, nhãn thức,
và nhĩ thức cũng do hành uẩn đưa đến và hướng dẫn.
Hành
Uẩn Cưỡng Chế Bằng Cách Nào?
Ðức
Thế Tôn khuyến khích ta nên suy tư như thế nầy: Nếu hành
uẩn là tự ngã ắt nó không gây phiền não, làm cho ta khó
chịu. Trong thực tế rõ ràng nó cưỡng chế ta bằng nhiều
cách. Khi những khát vọng hay tham ái làm cho ta trằn trọc
suy tư thì ta trở nên mỏi mệt, kiệt sức và âu sầu phiền
muộn. Khi thốt ra những lời đáng lẽ không nên nói thì ta
cảm nghe ngượng ngùng bối rối. Nếu vi phạm tội hình sự,
ắt ta bị hành phạt tù tội. Lòng tham ái thiêu đốt và làm
cho chúng ta mất ăn mất ngủ. Khi có những hành vi bất thiện
như trộm cắp hay dối gian láo xược ta sẽ bị sa đọa vào
những khổ cảnh và phải chịu khổ sở cùng cực.
Cùng
thế ấy, hành liên kết với sân hận sẽ đưa đến những
hành động và lời nói gây nên tình trạng kiệt lực và đau
khổ. Hành liên kết với si mê, ngã mạn, tà kiến, cũng dẫn
đến tình trạng kiệt lực và đau khổ trong kiếp hiện tại
và mở đường đưa vào khổ cảnh. Ðó là phương cách mà
hành cưỡng chế ta. Nếu hành là tự ngã nó sẽ không gây
đau khổ cho ta dường thế ấy.
Nếu
hành là tự ngã ắt ta có thể thu xếp và tổ chức như thế
nào chỉ có những sinh hoạt trong sạch tạo thiện nghiệp
đưa đến phước báu, chớ không bao giờ có những hành vi
tạo bất thiện nghiệp đưa đến những tình trạng khổ đau.
Trong thực tế không thể thu xếp để chỉ có những sinh hoạt
trong sạch như ý ta muốn. Có thể chúng ta phải tự đặt
mình vào những hoàn cảnh khó khăn, phải làm những việc
không nên làm, phải nói những lời không nên nói, hay suy tư
về những việc không nên nghĩ đến. Như thế rõ ràng ta không
thể kiểm soát hay sắp xếp làm cho hành phải như thế nào
theo ý muốn, rõ ràng hành không phải là tự ngã. Ðể làm
sáng tỏ vấn đề Ðức Thế Tôn dạy:
"Nầy
chư Tỳ Khưu, hành không phải là tự ngã, không phải là phần
nòng cốt bên trong ta. Vì lẽ ấy, nó có chiều hướng gây
đau khổ buồn phiền. Lại nữa ta không thể thu xếp và sai
bảo: Hành phải như thế nầy, hay phải không như thế kia."
Như
vậy, hành không phải là tự ngã, không có thể chất thật
sự, mà biến đổi chảy trôi tùy thuộc nguyên nhân và điều
kiện, nhân và duyên, do đó gây cho ta phiền não. Nó cưỡng
chế ta như thế nào đã được mô tả ở phần trên. Vì giao
du với bạn bè hư hèn, vì bị những vị thầy xấu dẫn dắt
và vì có những thái độ tâm linh sai lầm, ta làm, nói và
suy tư những điều không nên làm, không nên nói, hay không
nên suy tư. Trong đời sống hiện đại ta có thể sa ngã say
đắm trong những thói hư tật xấu, trong những sinh hoạt đáng
bị khiển trách và bất hợp pháp như say sưa, nghiện ngập,
hút xách cờ bạc. Cũng vì tham ái hay sân hận ta thốt ra những
lời lẽ mà đáng lý ra không nên nói. Những sinh hoạt xấu
xa tương tợ đưa đến hậu quả là táng gia bại sản, sa
vào hoàn cảnh tù tội và mất hết bạn bè thân thuộc. Ðứng
về phương diện đạo đức và luân lý, những hành động
xấu như sát sanh và vọng ngữ tạo nhiều quả dữ có thể
đưa đến trạng thái khổ sầu cùng cực trong những khổ
cảnh. Như vậy, hành uẩn cưỡng chế ta bằng cách tạo nghiệp
bất thiện dẫn đến quả dữ.
Nơi
đây Sư muốn thuật lại một câu chuyện cho thấy như thế
nào hành uẩn bất thiện của người đồ tể dẫn đến hậu
quả vô cùng tai hại.
Câu
Chuyện Một Ngạ Quỉ Bị Nhiều Mũi Nhọn Ðâm Chích
Một
hôm nọ Ðức Lakkhaṇa và Ðức Moggallāna (Mục Kiền Liên)
cùng nhau đi trì bình, từ đỉnh núi Linh Thứu xuống. Trên
đường đi, do nhãn thông Ngài Moggal-lāna thấy một peta, ngạ
quỉ. Ngạ quỉ bị nhiều mũi nhọn đâm đầy mình. Có mũi
đâm vào đầu xuyên qua miệng, có mũi đâm vào miệng chí
đến ngực, có mũi đâm từ ngực xuống bụng, có mũi từ
bao tử đổ xuống vế, có mũi đâm vào từ vế chí đến
bắp chân, có mũi từ bắp chân xuống bàn chân.
Ngạ
quỉ, peta, chạy đó đây quanh quẩn vô cùng đau khổ, nhưng
chạy cách nào, nơi đâu, các mũi nhọn vẫn rượt theo đâm
chích khắp châu thân. Nhìn thấy cảnh đau khổ như vậy Ngài
Moggallāna suy tư rằng trong vòng luân hồi chính mình cũng đã
bị sa đọa vào những kiếp sống tương tợ. Hữu hạnh thay
mình đã giải thoát, không còn rơi vào những hoàn cảnh khổ
đau như vậy nữa. Nghĩ vậy Ngài mĩm cười. Ngài Lakkhaṇa
nhìn thấy, hỏi Ðức Moggallāna tại sao mĩm cười.
Nghĩ
rằng Ðức Lakkhaṇa chưa phát triển đầy đủ tâm trí để
nhìn thấy ngạ quỉ, có thể không thông hiểu và đâm ra hoài
nghi. Nghĩ vậy Ngài Moggallāna không thuật lại câu chuyện
ngay lúc bấy giờ mà bảo Ngài Lakkhaṇa rằng đến lúc về,
sẽ hỏi lại chuyện nầy trước mặt Ðức Thế Tôn.
Sau
thời độ ngọ hai vị đến hầu Phật và Ðức Lakkhaṇa lặp
lại câu hỏi, tại sao Ðức Moggallāna mĩm cười khi xuống
núi Linh Thứu đi trì bình. Chừng đó Ngài Moggallāna nói rằng
trên đường đi xuống núi Ngài trông thấy một ngạ quỉ
bị nhiều mũi nhọn rượt theo đâm chích, và Ngài mĩm cười
vì nghĩ lại mừng thầm rằng mình đã may mắn thoát ra khỏi
quả dữ của những hành bất thiện, khỏi còn phải bị sa
đọa vào những hoàn cảnh cực kỳ thống khổ như vầy nữa.
|