|
.
KINH VÔ
NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa
Sutta)
Thiền
sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
|
|
Phân
tách ngũ uẩn
Thọ
kinh nghiệm trong ba thời
Những
cảm thọ bên trong và bên ngoài
Thọ
cảm thô kịch và vi tế
Thọ
cảm thấp hèn và cao thượng
Thọ
cảm xa và thọ cảm gần
Mười
một cách phân tách tưởng uẩn
Mười
một cách phân tách hành uẩn
Mười
một cách phân tách thức uẩn
Tiến
trình tái sanh
Ðịnh
luật phát sanh tùy thuộc
Thức
uẩn trong ba thời kỳ
Quán
chiếu tâm theo kinh Tứ Niệm Xứ
VII-
MƯỜI
MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN
-ooOoo-
Yā
kāci vedanā, atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā
vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā sabbā
vedanā, netaṁ mama neso hamasmi na meso attāti. Evametaṁ yathābhūtaṁ
sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.
"Tất
cả thọ, dầu ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên trong
hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng,
gần hay xa, phải được thấy với sự hiểu biết của chính
mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy: 'Ðây
không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không
phải là tự ngã của tôi'."
Trên
đây là lời dạy phân tách quán niệm thọ uẩn theo mười
một phương thức, nhằm mục đích làm sáng tỏ những đặc
tướng vô thường, khổ và vô ngã. Nơi đây, thọ trong quá
khứ có nghĩa là những thọ cảm được kinh nghiệm trong những
kiếp sống đã qua cũng như những cảm thọ được kinh nghiệm
trong những ngày, những tháng, những năm trước đây trong
chính kiếp sống nầy. Ðây cũng là những cảm thọ vừa kinh
nghiệm trong thời gian trước đây, ngày hôm nay. Lẽ dĩ nhiên
tất cả những cảm thọ trong quá khứ ấy đã chấm dứt,
không còn hiện hữu, nhưng đối với người chấp ngã mạnh
mẽ, điều ấy không dĩ nhiên; họ khư khư chấp rằng chính
cái tự ngã đã kinh nghiệm những cảm thọ trước đây vẫn
còn tiếp tục kinh nghiệm trong hiện tại. Theo quan kiến của
họ, tất cả những thọ cảm phát sanh đến mình trước đây
trong kiếp nầy không chấm dứt và biến tan. Họ tin tưởng
rằng cái tự ngã thích thú với những thọ cảm trước đây
vẫn còn hoan hỷ thích thú với nó trong hiện tại.
Thọ
Cảm Kinh Nghiệm Trong Ba Thời
Nếu
những thọ khổ như gồng cứng, nóng, hoặc đau nhức, phát
hiện trong khi quán niệm di động phồng xẹp ở bụng, hành
giả liền ghi nhận. Khi ghi nhận như thế, thọ cảm khó chịu
dần dần suy giảm, bớt đau nhức, rồi tan biến. Khi tâm định
thật sự đặc biệt dõng mãnh người hành thiền sẽ thấy
rằng mỗi khi ghi nhận thì cơn đau liền chấm dứt. Nhận
thức như vậy, hành giả tự bản thân chứng nghiệm rằng
những thọ cảm không thường còn, không kéo dài đến một
giây đồng hồ, mà luôn luôn nhanh chóng sanh diệt. Không phải
chỉ các thọ uẩn trong những kiếp sống quá khứ không tồn
tại đến hiện tại, mà chính những cảm thọ trước đây
trong kiếp nầy cũng không còn. Những thọ cảm phát hiện
chỉ trong khoảnh khắc trước đây cũng không còn hiện hữu.
Người hành thiền có chánh niệm chứng nghiệm tất cả những
điều nầy. Vị ấy thấy rằng thọ lạc, thọ khổ hay thọ
vô ký được cảm nhận trong khoảnh khắc hiện tại đều
không ngừng sanh rồi diệt. Do đó, có thể suy diễn rằng
những cảm thọ sẽ phát sanh trong tương lai cũng sẽ tan biến
và chấm dứt ngay vào lúc vừa phát sanh. Trong thời gian hành
thiền, công phu quán niệm xảy diễn như sau:
1.
Những cảm thọ gồng cứng, nóng, đau nhức và bực bội khó
chịu mà mình vừa kinh nghiệm trong khoảnh khắc vừa qua không
kéo dài đến khoảnh khắc hiện tại trong thọ cảm thoải
mái tiện nghi. Nó tiêu diệt ngay vào khoảnh khắc mà ta cảm
nghe gồng cứng, nóng, đau nhức và bực bội khó chịu. Vừa
khởi sanh liền chấm dứt. Vì hoại diệt nhanh chóng như vậy
nó là vô thường. Và vì là vô thường và khó chịu, nó là
đáng sợ, một nguồn đau khổ. Những cảm thọ thoải mái
tiện nghi trong khoảnh khắc vừa qua không kéo dài đến cảm
giác bực bội kém tiện nghi trong khoảnh khắc hiện tại,
nó nhanh chóng hoại diệt, ngay vào lúc có cảm giác tiện nghi
dễ chịu, và do đó những thọ cảm ấy là vô thường. Vì
là vô thường, nó là đáng sợ, một nguồn đau khổ. Tất
cả những cảm thọ, lạc, khổ hoặc vô ký đều không phải
là tự ngã, không có thực chất.
2.
Những thọ lạc hay thọ khổ trong hiện tại lặp đi lặp
lại chấm dứt và tan biến ngay trong khi được ghi nhận và
do đó, là vô thường, khổ và vô ngã.
3.
Những thọ lạc hay thọ khổ trong tương lai cũng sẽ chấm
dứt và tan biến ngay vào lúc phát sanh. Nó cũng vậy, là vô
thường, khổ và vô ngã.
Ðó
là phương thức mà các cảm thọ trong quá khứ, hiện tại
và vị lai được nhận thấy vừa khi ta ghi nhận. Còn một
phương pháp khác để quán niệm những cảm thọ trong quá
khứ và vị lai bằng cách suy diễn từ những cảm thọ trong
hiện tại: "Cũng y hệt như trong hiện tại những cảm thọ
vô thường -- lạc, khổ và vô ký -- chấm dứt ngay khi vừa
được ghi nhận, những cảm thọ trước đó cùng thế ấy
cũng hoại diệt biến tan vào lúc vừa phát sanh, và như vậy
cũng vô thường, khổ và vô ngã. Những cảm thọ sẽ phát
sanh trong tương lai cũng hoại diệt vào lúc vừa phát sanh cùng
thế ấy, và như vậy cũng là vô thường, khổ, vô ngã."
Chính
ta đã nhận thấy những cảm thọ của chúng ta hoại diệt
ra sao, giờ đây hãy suy diễn xem thọ cảm của những người
khác trong toàn thể thế gian:
"Cũng
như những thọ cảm của chính ta, chấm dứt và biến tan khi
vừa niệm đến, những thọ cảm của người khác trong toàn
thể thế gian cũng sẽ chấm dứt và biến tan. Những cảm
thọ ấy cũng là vô thường, khổ và vô ngã."
Những
Cảm Thọ Bên Trong Và Bên Ngoài
"Cũng
như sắc uẩn được quán sát dưới hai sắc thái, bên trong
và bên ngoài, sắc pháp bên trong không trở thành sắc pháp
bên ngoài và ngược lại, cùng thế ấy, thọ uẩn cũng nên
được quán sát dưới hai sắc thái, bên trong và bên ngoài,"
sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, dạy như vậy. Thọ cảm
từ bên trong không di chuyển ra bên ngoài; thọ cảm từ bên
ngoài không nhập vào trong. Phải quán niệm như vậy.
Câu
hỏi được nêu lên là: Nói như vậy phải chăng có nghĩa
là những cảm thọ từ bên trong ta không nhập sang qua thân
của người khác và những cảm thọ của người khác không
nhập sang thân ta? Không ai tin rằng thọ cảm di chuyển từ
thân người nầy sang qua thân người khác. Do vậy phương thức
quán chiếu nói trên không có nghĩa như thế. Nó chỉ có nghĩa
là sự đổi thay đối tượng, từ đối tượng bên trong ra
đối tượng bên ngoài, hay ngược lại, từ bên ngoài vào
trong.
Khi
thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng từ bên trong
chấm dứt và được thay thế bằng cảm thọ phát sanh do đối
tượng bên ngoài, người ta thường nghĩ rằng cảm thọ bên
trong đã trở thành cảm thọ bên ngoài. Ngược lại khi những
thọ lạc hay thọ khổ do những đối tượng từ bên ngoài
tạo duyên được thay thế bằng những thọ cảm do đối tượng
bên trong tạo duyên, người ta tin rằng cảm thọ bên ngoài
đã trở thành cảm thọ bên trong. Cùng thế ấy, khi những
thọ cảm phát sanh từ một đối tượng ở xa biến đổi
trở thành những thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng
gần, người ta tin rằng thọ cảm kia di chuyển từ xa đến
gần và ngược lại, từ gần đi xa. Do đó, nơi đây, điều
nầy có nghĩa là sự thay đổi đối tượng -- bên trong và
bên ngoài, gần và xa -- tùy thuộc theo đó cảm thọ phát sanh.
Người
hành thiền chuyên cần quán niệm những hiện tượng sắc
và danh ngay vào lúc chúng phát sanh, ghi nhận cơn đau nhức
khi thọ khổ khởi sanh trong thân. Trong khi ghi nhận như vậy
nếu tâm hướng về một đối tượng bên ngoài và thọ lạc
hay thọ khổ kế đó khởi phát. Những cảm thọ nầy phải
được ghi nhận như thọ hỷ hay thọ ưu. Như vậy, trong lúc
cẩn trọng ghi nhận, thọ khổ được ghi nhận lúc sơ khởi
không di chuyển từ trong ra ngoài, mà chấm dứt ngay bên trong.
Rồi sự chú ý chuyển sang một đối tượng bên ngoài và
đối tượng bên ngoài nầy tạo duyên làm khởi sanh thọ cảm
mới. Như thế, hành giả thông hiểu những hiện tượng. Vị
ấy cũng thấu hiểu đầy đủ tiến trình ngược lại; tức
là, thí dụ như thọ lạc sơ khởi phát sanh từ một đối
tượng bên ngoài chấm dứt, sau đó thọ khổ mới phát sanh
từ một đối tượng bên trong. Cảm thọ bên trong không di
chuyển ra ngoài; cảm thọ bên ngoài không di chuyển vào trong.
Thọ khởi sanh và chấm dứt ngay trong khoảnh khắc trở thành,
và như vậy là vô thường, khổ, và vô ngã.
Thọ
Cảm Thô Kịch Và Vi Tế
Trong
khi đang kinh nghiệm những thọ khổ thô kịch, nếu có những
thọ khổ vi tế bắt đầu ta có khuynh hướng tin rằng những
thọ khổ thô kịch ấy đã đổi thay và trở thành thọ khổ
vi tế. Khi đang kinh nghiệm thọ khổ vi tế, nếu cảm nghe
thọ khổ thô kịch bắt đầu, ta tin rằng những thọ khổ
vi tế đã biến đổi và trở thành thô kịch. Tuy nhiên, đối
với vị hành giả cẩn trọng chú niệm, trong mỗi niệm thấy
rằng thọ khổ hoại diệt từ phần từ phần, từng giai đoạn,
giai đoạn nầy đến giai đoạn khác, và do đó thông hiểu
rằng thọ khổ vi tế không biến đổi thành thô kịch, mà
thọ khổ thô kịch cũng không biến thành vi tế. Những cảm
thọ cũ hoại diệt, những thọ cảm mới khởi sanh và thay
thế vào. Ðó là vô thường. Vị hành giả chứng nghiệm những
điều ấy qua kinh nghiệm bản thân.
Thọ
cảm thô kịch không trở thành vi tế, và ngược lại. Những
cảm thọ ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa khởi phát. Do đó,
thọ uẩn là vô thường, khổ và vô ngã.
Thọ
Cảm Thấp Hèn Và Cao Thượng
Những
thọ cảm đau nhức khó chịu trong thân được xem là thọ
cảm dưới hình thức thấp hèn trong khi cảm thọ hoan hỷ
thỏa thích vi tế được xem là cao thượng. Cùng thế ấy,
đau khổ, sầu muộn, chán nản, và buồn phiền là thấp hèn,
trong khi hạnh phúc và vui vẻ hân hoan là loại cảm thọ cao
thượng. Nói cách khác, cảm nghe giận dữ, chán nản buồn
phiền, và sầu khổ là cảm thọ thấp hèn, cảm nghe hạnh
phúc vui vẻ là thọ cảm cao thượng. Nhưng nơi đây, hoan hỷ
thỏa thích trong dục lạc là thấp hèn hơn hạnh phúc của
tâm đạo nhiệt thành hướng đến một đối tượng đáng
kỉnh mộ như Ðức Phật.
Vì
kinh nghiệm khác nhau từ cảm thọ nầy đến thọ cảm khác,
người ta thường nghĩ rằng thọ cảm thấp hèn đã trở thành
cao thượng, hoặc thọ cảm cao thượng đã biến thành loại
thọ cảm thấp hèn. Nhưng người hành thiền nhận thức rằng
thọ cảm chấm dứt ngay vào lúc được ghi nhận và do đó,
thông hiểu rằng cảm thọ cao thượng không trở thành thấp
hèn, mà cảm thọ thấp hèn cũng không trở thành cao thượng.
Những thọ cảm ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa phát hiện
và do đó, là vô thường. Tình trạng đau khổ của những
thọ cảm thấp hèn không trở thành trạng thái hạnh phúc
của thọ lạc cao thượng. Cảm thọ cao thượng cũng không
trở thành thọ cảm thấp hèn. Nó chấm dứt ngay vào lúc vừa
khởi phát và do đó là vô thường, khổ và vô ngã.
Thọ
Cảm Xa và Thọ Cảm Gần
Chúng
ta đã đề cập dong dài đến những cảm thọ xa và gần:
những cảm thọ khởi sanh từ những đối tượng ở xa không
trở thành những cảm thọ phát sanh do những đối tượng
gần; những cảm thọ do những đối tượng gần tạo duyên
không trở thành cảm thọ tùy thuộc đối tượng xa tạo điều
kiện. Chúng nó chấm dứt ngay vào lúc ta kinh nghiệm và như
vậy, là vô thường, khổ và vô ngã.
Mười
Một Cách Phân Tách Tưởng Uẩn
Ðức
Thế Tôn dạy:
Yā
kāci saññā, atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā
oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike
vā sabbā saññā netaṁ mama neso hamasmi na meso attāti. Eva metaṁ
yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.
"Tất
cả tưởng uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay hiện tại,
bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao
thượng, xa hay gần phải được xem với sự hiểu biết của
chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy:
'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây
không phải là tự ngã của tôi'."
Ðây
là lời dạy nên phân tách tưởng uẩn dưới mười một tựa
đề -- quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô
kịch, vi tế, thấp hèn, cao thượng, xa hay gần -- nhằm vạch
rõ cho thấy bản chất vô thường, khổ và vô ngã của nó.
Nơi đây tưởng uẩn trong quá khứ có nghĩa là những sự
hồi nhớ mà mình kinh nghiệm trong những kiếp sống quá khứ
hay trong thời gian đã qua trong kiếp hiện tại. Những sự
hồi nhớ mà ta kinh nghiệm trong quá khứ ấy, dĩ nhiên đã
chấm dứt, không còn tồn tại hiện hữu. Tuy nhiên, đối
với người chấp thủ mạnh mẽ vào tự ngã, điều nầy không
phải là dĩ nhiên bởi vì họ quan niệm rằng chính cái ta
mà nhận ra và hồi nhớ (tưởng) những sự việc trong quá
khứ tiếp tục nhận ra và hồi nhớ sự việc trong hiện tại;
rằng tất cả những hành động nhận ra và hồi nhớ đã
có trong những kiếp quá khứ hay trong thời gian đã qua trong
kiếp sống nầy là do chính một cái ta; và trong kiếp hiện
tại nầy cũng vậy. những gì đã được nhận ra và hồi
nhớ lúc còn trẻ thơ hay trong thời gian gần đây đều là
công việc của một cái ta, chính một cái ta ấy.
Vị
hành giả chuyên cần giữ chánh niệm, luôn luôn để tâm theo
dõi di động phồng xẹp của bụng và những hiện tượng
ngay vào lúc cảm thọ, thấy rằng cái tưởng uẩn lúc nghe
(tức sự nhận ra và hồi nhớ những âm thanh mà mình đang
nghe) tức khắc tan biến vừa lúc được ghi nhận. "nghe, nghe";
cái tưởng uẩn lúc thấy tan biến ngay khi ta ghi nhận, "thấy,
thấy", cùng thế ấy sự hồi nhớ và nhận ra ý nghĩ cũng
nhanh chóng hoại diệt vừa khi ta ghi nhận.
Quán
sát như vậy xuyên qua kinh nghiệm bản thân hành giả nhận
thức rằng tưởng không thường còn, nó không tồn tại đến
một giây đồng hồ và bản chất thiên nhiên của nó là không
ngừng hoại diệt. Nói chi đến những sự việc mà ta hồi
nhớ trong kiếp quá khứ, ngay trong đời sống nầy, những
sự việc mà ta nhớ lại trong giây phút vừa qua cũng đã chấm
dứt và biến tan. Ðiều nầy, người hành thiền tự mình
có thể nhận thấy. Chí đến những tưởng uẩn vừa khởi
sanh trong khoảnh khắc vừa qua cũng đã hoại diệt. Như vậy,
hãy hay biết và nhận ra những gì mà ta thấy, nghe và sờ
đụng trong giây phút hiện tại. Những sự việc ấy luôn
luôn khởi sanh rồi tan biến, lặp đi lặp lại, không ngừng
sanh diệt. Chúng ta cũng có thể kết luận rằng những tưởng
uẩn (tri giác) trong tương lai cũng sẽ sanh và diệt, tan biến
ngay lúc khởi sanh.
Trong
lúc hành thiền, phân tách tưởng uẩn như sau:
1.
Tưởng uẩn, nhận ra những đối tượng vừa cảm thọ trong
khoảnh khắc vừa qua, không còn tồn tại đến khoảnh khắc
hiện tại, nó tan biến ngay trong khi ta nhận ra. Do đó, nó
là vô thường, khổ và vô ngã.
2.
Tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ sự việc trong hiện tại,
cũng biến tan trong khi ta thật sự nhận ra. Do đó, nó cũng
là vô thường, khổ và vô ngã.
3.
Tưởng uẩn, sẽ nhận ra và hồi nhớ sự việc trong tương
lai, cũng sẽ biến tan trong khi ta ghi nhận. Như vậy, nó là
vô thường, khổ và vô ngã.
Những
tưởng uẩn trong quá khứ và vị lai của toàn thể thế gian
cũng được kết luận bao hàm như những tưởng uẩn phát
hiện ngay vào lúc được ghi nhận. Cũng giống như những tưởng
uẩn, chấm dứt và biến tan vào lúc được ghi nhận trong
hiện tại, cùng thế ấy những tưởng uẩn trong quá khứ
hoại diệt và tan biến lúc vừa khởi sanh và như vậy là
vô thường, khổ và vô ngã. Cùng thế ấy, những tưởng uẩn
trong tương lai cũng sẽ hoại diệt và tan biến vào lúc sanh
khởi, và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã.
Những
tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng trong
một người, trong người khác, và trong toàn thể thế gian
cũng hoại diệt và tan biến lúc khởi sanh và như vậy là
vô thường, khổ và vô ngã.
Bản
chất vô thường của tưởng uẩn, hay tri giác, (vốn có đặc
tính nhận ra và hồi nhớ sự vật), quả thật hiển nhiên
nếu chúng ta chỉ suy gẫm và nhớ lại những điều đã học
và đã nhớ trước kia, giờ đây mình quên đi dễ dàng như
thế nào.
Những
tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng trong
thân mình không tồn tại đến tưởng uẩn nhận ra những
đối tượng bên ngoài; những tưởng uẩn nhận ra các đối
tượng bên ngoài không tồn tại kéo dài đến lúc hồi nhớ
các đối tượng bên trong thân -- nó chấm dứt và tan biến
ngay lúc khởi sanh, và như thế là vô thường, khổ và vô
ngã.
Những
tri giác nhận ra và hồi nhớ các đối tượng ham muốn và
tham ái, sân hận và bực mình, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi
và ngờ vực, tất cả đều bất thiện. Ðó là những tưởng
uẩn thuộc loại thô kịch. Những tri giác liên quan đến tâm
đạo nhiệt thành, tin tưởng nơi Ðức Thế Tôn, hồi nhớ
một thời Pháp, nhớ lại những lời khuyên bảo và dạy dỗ
của thầy hay của cha mẹ là tưởng uẩn thuộc loại tinh
tế, tốt đẹp. Ðó là những tưởng uẩn cao thượng. Những
tưởng uẩn thô kịch thuộc loại thấp hèn. Nói cách khác,
nhận ra và hồi nhớ những đối tượng thô kịch là tưởng
uẩn thô kịch, nhận ra những đối tượng tốt đẹp là tưởng
uẩn vi tế.
Những
tưởng uẩn thô không tồn tại đến khoảnh khắc mà tưởng
uẩn vi tế khởi sanh; tưởng uẩn vi tế không kéo dài đến
khoảnh khắc mà tưởng uẩn thô khởi sanh. Mỗi chặp tưởng
uẩn biến tan ngay vào lúc vừa khởi sanh và do đó là vô thường,
khổ và vô ngã.
Tưởng
uẩn thấp hèn không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà
tưởng uẩn cao thượng khởi sanh; cùng thế ấy, tưởng uẩn
cao thượng không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn
thấp hèn khởi sanh. Nó biến tan ngay vào lúc khởi sanh và
do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã.
Nhận
ra và hồi nhớ những đối tượng vi tế ở xa được gọi
là tưởng uẩn xa (tri giác những đối tượng ở xa); nhận
ra những đối tượng thô, gần, bên trong người, được gọi
là tưởng uẩn gần. Tưởng uẩn xa không tồn tại kéo dài
đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn gần khởi phát; một tưởng
uẩn gần không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn
xa khởi phát. Nó biến tan ngay vào khoảnh khắc vừa phát sanh
và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã.
Mười
Một Cách Phân Tách Hành Uẩn
Ðức
Thế Tôn tuyên ngôn:
Ye
keci saṅkhārā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā
oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā ye dūre santike
vā sabbe saṅkhārā netaṁ mama, neso hamasmi na meso attāti evametaṁ
yathābūtam sammappaññāya daṭṭhabaṁ.
"Tất
cả hành uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên
trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng,
xa hay gần, phải được xem, với sự hiểu biết của chính
mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy: 'Ðây
không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không
phải là tự ngã của tôi'."
Ðây
là những lời dạy phân tách quán chiếu hành uẩn theo mười
một phương thức để thấy rõ đặc tướng vô thường, khổ
và vô ngã.
Nơi
đây nên ghi nhận rằng có rất nhiều pháp (dhammas) được
sắp xếp dưới danh từ saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Chúng
ta đã thấy rằng ngoài thọ và tưởng, năm mươi tâm sở
còn lại được gọi chung là saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Tóm
tắt, saṅkhāra, hành, là nguyên động lực nằm phía sau những
hành động bằng thân, khẩu, hay ý. Chính hành uẩn là nguyên
nhân làm cho ta thay đổi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Saṅkhāra
ra lệnh, "Bây giờ hãy đi, bây giờ hãy đứng, bây giờ hãy
ngồi." Hành tạo nguyên nhân xuất phát các hành động như
co vào, duỗi ra, di chuyển, và cười. Cũng hành, saṅkhāra,
làm nguyên nhân đưa đến lời nói, giống như ra lệnh, "giờ
đây hãy nói như thế nầy." Hành cũng làm nguyên nhân đưa
đến những suy tư, sự thấy và sự nghe.
Như
vậy, saṅkhāra của những kiếp trước -- muốn đi, muốn
đứng, hay muốn nói -- không thể kéo dài đến hành ở kiếp
sống nầy, có thể chăng? Có phải chăng tất cả đều tan
biến và hoại diệt ngay tại chỗ, vào lúc vừa khởi sanh?
Quả thật hiển nhiên rằng ý muốn làm, muốn lấy, hay muốn
suy tư trong những kiếp quá khứ hiện nay đã hoàn toàn tan
biến. Nhưng đối với những ai tin chắc rằng, "Chính tôi
đã làm tất cả những hành động ấy, tất cả những hành
động ấy đều do tôi thực hiện," thì họ khư khư chấp
vào một tự ngã, một cái ta duy nhất: "Chính tôi đã làm
tất cả những hành động trong kiếp sống quá khứ; người
hành động trong kiếp hiện tại cũng chính là tôi." Ðối
với họ thì "tôi", người hành động mãi mãi thường còn.
Vị
hành giả có chánh niệm quán chiếu bụng phồng, xẹp, khi
nghe cảm giác ngứa thì niệm "ngứa, ngứa". Trong khi niệm
như thế, nếu có phát sanh ý muốn gãi chỗ ngứa thì liền
niệm, "muốn gãi, muốn gãi." Hành, saṅkhārā, tức là ý muốn
gãi, được nhận thấy là biến tan mỗi lần niệm. Cũng như
trong khi niệm, "cứng, cứng" vì có cảm giác gồng cứng, nếu
có ý muốn co vào hay duỗi ra thì hành giả liền niệm.
|