x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
21. NHỊ KIẾN
BẤT TRỤ, THẬN VẬT TRUY TẦM
DỊCH
Nhị kiến đối đãi chẳng
trụ, chớ nên đuổi theo để tìm.
LỜI KHAI THỊ
Dùng mũi kim gọt sắt, nơi
mặt Phật cạo vàng, nói KHÔNG thì mảy may chẳng cách, nói
CÓ thì bậc Thánh khó tìm. Ban ngày không thấy đường, nửa
đêm lại sáng tỏ. Tuyệt đối đãi, lìa cổ kim, người đời
đều biết Hồ Hải rộng, xuất ngoại mới thấy nước bùn
sâu.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "NHỊ KIẾN BẤT
TRỤ, THẬN VẬT TRUY TẦM, người nghĩa giải cho rằng : Đã
chẳng trụ vọng, cũng chẳng trụ chơn, luôn cái chẳng trụ
cũng không trụ, chính ngay khi ấy đủ thứ đại dụng, tất
cả toàn chơn, đâu cần lìa cái này để tìm cái khác!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Ỷ! Như những lời nói tương
tự này, có ai không chứa một bụng hay nửa bụng, nhưng muốn
gần bên cạnh Tổ Sư thì chưa được.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Các pháp bổn lai vô sở trụ,
Nơi vô sở trụ bặt truy tầm.
Đêm qua Tây Đỉnh mặt trời
lặn,
Sáng nay y cũ chiếu rừng sâu.
22. TÀI HỮU THỊ
PHI, PHÂN NHIÊN THẤT TÂM
DỊCH
Vừa có thị phi, thì lăng xăng
lạc mất bản tâm.
LỜI KHAI THỊ
Căn chẳng lợi độn, đạo
chẳng cạn sâu, Thiền tông có một câu :
"Phi cổ phi kim", mò không đụng
đáy. Tỉnh tọa nơi Đại-viên-cảnh-trí, dù được đụng
đáy lại sâu vào rừng rậm tà kiến, Di Lặc, Thích Ca tự
biết chẳng có phần, con chồn, con trâu ráng nín sự tức
cười.
Đêm cưỡi ngựa sắt chìm
đáy biển,
Mò được mũi kim hồi năm
xưa.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "TÀI HỮU THỊ PHI,
PHÂN NHIÊN THẤT TÂM", người ở tòng lâm thường nói : Khắp
mười phương thế giới là sa môn tự kỷ, khắp mười phương
thế giới là cổ Phật pháp thân. Cho nên nói : lăng xăng chẳng
phải vật khác, tung hoành đâu phải bụi trần, chẳng thị
cũng chẳng phi, mỗi mỗi đều từ trong tâm diệu minh chảy
ra.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Những lời nói này, tòng lâm
gọi là việc thương lượng bình thường, cũng gọi là câu
nói chuyển thân (vô trụ), ai cũng dùng 2 câu này để dẫn
chứng, xưa nay không biết đã làm ô nhiễm bao nhiêu tâm địa
trong sạch, nên bậc đạo nhân chơn thật, quở nó là tạp
độc, mắng nó là nước miếng con chồn, có người nào không
chịu sự ma mị ấy chăng! Cần phải mửa hết cho mau.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Nói có thị phi, không thị
phi,
Nhà lớn cửa mở đợi ai vào.
Gai gốc đầy trời ngang đường
cái,
Đi qua ai chẳng bị vướng
y.
23. NHỊ DO NHẤT
HỮU, NHẤT DIỆC MẠC THỦ
DỊCH
Hai do một mà có, một cũng
đừng nên giữ.
LỜI KHAI THỊ
Mặt trời mọc, mặt trăng
lặn, trời đất lâu dài, chỉ có Châu Kim Cang (Đức Sơn)
không việc làm. Cầm ngang cây gậy đi dọc đường, có ai
hỏi ý Tổ Sư từ Tây Trúc sang, nếu chẳng đánh vào sống
lưng thì chụp ngay ngực, rồi nói "Ngậm miệng chó lại",
làm cho sum la vạn tượng híp mắt cười ha hả. Muốn đến
nơi phải đợi ba mươi năm sau.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "NHỊ DO NHẤT HỮU,
NHẤT DIỆC MẠC THỦ", người nghĩa giải cho rằng : Vừa theo
hai, liền mê một, vừa giữ một, liền sanh hai. Nên biết
: Hai là chơn vọng, một là tự tâm, cái "HAI" của chơn vọng
đã trừ, cái "MỘT" của tự tâm chẳng trụ, gọi là giải
thoát trên đường đạo lớn vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Những lời nói này, ghi nhớ
trong lòng cho là tham học, chẳng những chưa đủ tư cách để
ăn gậy của Đức Sơn, mà gậy sắt của Diêm La Vương lại
không thể thiếu phần cho ông.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Bảo y một pháp cũng đừng
giữ,
Chẳng biết "đừng giữ" chưa
thật nghèo.
Đâu bằng say rượu nằm trên
thảm,
Rải ném vàng ròng cho mọi
người.
24. NHẤT TÂM
BẤT SANH, VẠN PHÁP VÔ CỬU
DỊCH
Một tâm chẳng sanh khởi, muôn
pháp chẳng đúng sai.
LỜI KHAI THỊ
Tô Châu có, Thường Châu có,
sáu lần sáu = ba mươi sáu, bảy lần bảy = bốn mươi chín.
Am chủ dựng lên nắm tay, Bá Trượng mở ra hai bàn (tay), sản
xuất túi cơm (ám chỉ Tổ Sư) một ngàn bảy, hiện ra đầu
thần mặt quỷ. Con tôm đâu từng ra khỏi lưới.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "NHẤT TÂM BẤT
SANH, VẠN PHÁP VÔ CỬU", người nghĩa giải dẫn chứng kinh
luận rằng : "Tâm sanh mỗi mỗi pháp sanh, tâm diệt mỗi mỗi
pháp diệt. Các pháp chẳng tự sanh, các pháp chẳng tự diệt,
đều do một tâm biến hiện, một tâm không sanh, các pháp
thường trụ". Cho nên người xưa có lời nói : "Trâu sắt
không sợ sư tử rống, giống như người gỗ thấy chim, hoa",
chính là nghĩa này vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Đúng thì đúng rồi! Nhưng
Ngài Vĩnh Gia lại nói : "Ai vô niệm, ai vô sanh? Nếu thật
vô sanh thì vô bất sanh, kêu người gỗ-máy đến hỏi thử,
dụng công cầu Phật lúc nào thành? Vậy lời nghĩa giải trên
dường như trái ngược; xin hỏi : Bất sanh là phải, hay vô
bất sanh là phải? Thử xác định xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Vạn pháp xưa nay chẳng đúng
sai,
Một tâm đâu có sanh, bất
sanh.
Lòng từ dặn dò dù tha thiết,
Tiếng sáo chăn trâu khó hợp
đàn.
25. VÔ CỬU VÔ
PHÁP, BẤT SANH BẤT TÂM
DỊCH
Chẳng đúng sai thì chẳng phải
pháp, cũng chẳng sanh cái tâm chấp "chẳng phải tâm".
LỜI KHAI THỊ
Núi Thái Hoa không hiểm, Biển
mênh mông không sâu, bài thơ "Nguyệt thực" của Lư Đồng
đâu có khó đọc, Khúc "Thái Cổ" của Bá Nha thật có tri
âm, chỉ có "Ám Hiệu Tử" của Đông Sơn nắm thì không kẽ
hở, buông thì rất khó tìm, làm phiền bao nhiêu người lanh
lợi, chen lấn tranh giành đến ngày nay.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "VÔ CỬU VÔ PHÁP,
BẤT SANH BẤT TÂM", người nghĩa giải cho rằng : hai câu này
là ngược lại hai câu trên. Nói "KHÔNG ĐÚNG SAI" thì muôn
pháp tự tiêu, "KHÔNG SANH" thì một tâm tự tịch, Pháp tiêu
tâm tịch, bản thể của chí đạo rõ ràng, chẳng đợi đắc
mà đắc rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Xưa kia tăng hỏi Triệu Châu
: "Học nhân mới vào tòng lâm, xin thầy chỉ dạy" Châu hỏi
"ăn cháo rồi chưa?" Tăng nói : "Ăn rồi". Châu nói : "Rửa
chén bát đi!" Tăng ấy ngộ liền. Vậy tăng ấy lúc bấy giờ
ngộ chẳng đúng sai ư? Ngộ chẳng phải pháp ư ? Ngộ không
sanh ư? Ngộ chẳng phải tâm ư? Xin xác định xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Chỉ vì lỗi chấp chẳng đúng
sai,
Sanh tâm đều bởi chấp "không
sanh".
Đêm lạnh vượn khóc trăng
đỉnh núi,
Khác đường xưa nay không thể
hành.
26. NĂNG TÙY CẢNH
DIỆT, CẢNH TRỤC NĂNG TRẦM
DỊCH
Năng theo cảnh diệt, cảnh
theo năng mất.
LỜI KHAI THỊ
Đem một lớp khử bỏ một
lớp, đường xa mới biết sức ngựa; chẳng đem một lớp
khử bỏ một lớp, lâu ngày mới thấy lòng người. Công án
2 lớp; chân đã duỗi thì không rút, ngoài 3000 dặm ai là tri
âm?
Từ khi mùa đông người đã
về,
Mấy đám mây xuân bọc núi
xanh.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "NĂNG TÙY CẢNH
DIỆT, CẢNH TRỤC NĂNG TRẦM", người nghĩa giải dẫn chứng
lời Vĩnh Gia rằng : "Cảnh không trí thì chẳng rõ, trí không
cảnh thì chẳng sanh; trí sanh do rõ cảnh mà sanh, cảnh rõ
do trí sanh mà rõ". Nên biết NĂNG là một tâm, CẢNH là các
pháp, năng tức tên khác của trí, cảnh tức biệt hiệu của
pháp, cảnh diệt thì tâm năng rõ cũng diệt, tâm không thì
cảnh sở hiện cũng mất. Năng và cảnh giúp nhau tồn tại,
nhiếp nhau dung thông, vốn không ngăn cách, người không rõ
nghĩa này nên gọi là mê.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Theo lời nói như vậy, gọi
là liễu ngộ được chăng? Chẳng những không liễu ngộ,
lại như người đói khát ăn muối, càng thêm đói khát mà
thôi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đồng biết ánh sáng do đèn
hiện,
Cùng nói làn sóng nhờ nước
sanh.
Nước cạn, đèn tắt, sóng,
ảnh hết,
Mới đáng ngoài cửa ăn roi
Tổ.
27. CẢNH DO NĂNG
CẢNH, NĂNG DO CẢNH NĂNG
DỊCH
Cảnh do năng thành cảnh, năng
do cảnh thành năng.
LỜI KHAI THỊ
Đại Tạng kinh điển là giấy
vụn năm xưa, ngàn bảy công án là dây
dưa mục nát, cũng như lá vàng
gạt con nít nín khóc, khác chi
đốt ngọn đèn dưới ánh
sáng mặt trời! Dẹp qua lớp này rồi lại có
một lớp nữa, có mấy ông
tăng được thoát khỏi những sự lừa gạt nầy
?
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "CẢNH DO NĂNG
CẢNH, NĂNG DO CẢNH NĂNG". Có người y văn giải nghĩa rằng
: Cảnh chẳng tự cảnh, vì năng nên cảnh; năng chẳng tự
năng, vì cảnh nên năng, năng nhờ cảnh mà sanh, cảnh nhờ
năng mà khởi. Phải biết ngoài tâm chẳng pháp, sanh mà bất
sanh; ngoài pháp chẳng tâm, khởi mà phi khởi. Tổ Sư đến
đây, đem nhất tâm vạn pháp vò thành viên kẹo, chỉ muốn
y vui vẻ nuốt vào.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Hỏi ngược lại họ : "Ông
đã từng nuốt được hay chưa? Nếu như chưa, vậy cả thế
giới có ai nuốt được chăng? E rằng sau này viên sắt lửa
hồng chắc có phần cho ông!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Vì năng sanh sở, sở sanh năng,
Năng sở đều quên, sanh "Bất
Sanh".
Ốc Trai hút cạn nước biển
cả,
Trên nhánh san hô nửa đêm
trăng.
28. DỤC TRI LƯỠNG
ĐOẠN, NGUYÊN THỊ NHẤT KHÔNG
DỊCH
Muốn biết "hai đoạn", vốn
là "một-không".
LỜI KHAI THỊ
Không mà chẳng không, cây gậy
sừng thỏ chống bể núi bạc vách sắt ; chẳng không mà không.
Phất trần lông rùa mở ra gió mát trăng thanh. Động Sơn "ba
cân mè", dính da dính xương; Vân Môn "cục cứt khô", kẹt
vỏ kẹt ruột. Trước mặt nạp tăng thả qua không được,
dưới cửa Tổ Sư tái phạm khó tha. Thường khiến trong bụng
như kim chích, quăng xuống trong biển rộng sóng to.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "DỤC TRI LƯỠNG
ĐOẠN, NGUYÊN THỊ NHẤT KHÔNG". Người nghĩa giải cho rằng
: Nói "HAI ĐOẠN? là chỉ tâm pháp của đoạn trên. Nói "MỘT
KHÔNG" chẳng phải là cái ngoan không của Thái hư, cũng chẳng
phải là cái "không" đoạn diệt của Tiểu-thừa, là cái chơn
không vô tướng của linh giác. KHÔNG này là nguồn gốc của
chư Phật, là mẹ của vạn linh. Chẳng tiếng chẳng mùi, rõ
ràng ở trước các vật. Chẳng hữu chẳng vô, hiển bày bên
ngoài lục trần.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Đã là KHÔNG thì chẳng nên
có biết, đã có biết thì chẳng nên gọi là không. Nếu chưa
từng nắm tay với Tổ Sư, đích thân đến Biển Giác của
Chơn Không, thì nói chi ngôn ngữ này nọ!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đào được kho tàng trong chiêm
bao,
Lại cưỡi loan phụng lên Bảo
Đài.
Suốt đêm vui mừng không kể
xiết,
Sáng ngày tỉnh dậy dạ ngẩn
ngơ.
29. NHẤT KHÔNG
ĐỔNG LƯỠNG, TỀ HÀM VẠN TƯỢNG
DỊCH
Nói một cái KHÔNG đã đồng
với hai, một và hai cùng bao hàm vạn tượng.
LỜI KHAI THỊ
Một câu không ích kỷ, muôn
người đồng ngưỡng mộ. So bằng vai tổ. Cơ xảo qua bàn
tay, Đại Điên đánh thủ tọa; gom tuyết để chôn vàng, Hưng
Hóa phạt Duy Na, ra tiếng để ngưng âm thanh. Duy có Thạch-Cảm-Đương,
quanh năm suốt tháng, ló đầu ra trước trăm ngàn chúng, xưa
nay chẳng ai biết tán thưởng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "NHẤT KHÔNG ĐỔNG
LƯỠNG, TỀ HÀM VẠN TƯỢNG". Người nghĩa giải cho rằng
: Tâm chẳng khác với pháp. Là một KHÔNG đồng hai; pháp chẳng
khác với tâm, là cùng hàm vạn tượng. Sở dĩ người xưa
nói "Thấy sắc liền thấy tâm, chẳng sắc, tâm chẳng hiện",
lại trong kinh nói "Sum la và vạn tượng, do một pháp ấn định",
nên Tổ Sư sáng tỏ nơi đây.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Giảng kinh thì cho ngươi giảng,
nhưng muốn thấy ý chỉ Tổ Sư, khác gì đi Trịnh Châu ra
cửa Tào Châu.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Một chẳng phải chiếc, hai
chẳng đôi,
Trăng lạnh đêm khuya, bóng
in sông.
Ánh sáng nuốt hết cả vũ
trụ,
Còn dời bóng mai lên cửa song.
30. BẤT KIẾN
TINH THÔ, NINH HỮU THIÊN ĐẢNG
DỊCH
Chẳng thấy tinh tế thô sơ,
đâu có thiên lệch một bên.
LỜI KHAI THỊ
Thiền gọi quan ải, giáo gọi
cương yếu, cứu vớt chúng sanh trong tam giới, thi đậu "TÂM
KHÔNG" là tiêu biểu, đụng nhằm thằng không ý chí (tự tánh),
móc xiềng xích, mở thắt kết, muôn mắt nhìn thẳng, muốn
mở mà chẳng mở; trăm người giơ tay, muốn tát mà chẳng
tát, đạo giả vô tâm vốn nên như thế, đâu phải khoe tài
trước mặt mọi người. Cho nên nói : "BẤT KIẾN TINH THÔ,
NINH HỮU THIÊN ĐẢNG".
LỜI NGHĨA GIẢI
Người nghĩa giải cho rằng
: Tâm và pháp đã không, năng và sở đều bặt, thì chúng
sanh, chư Phật đồng bản thể, mê ngộ chẳng khác, nên dẫn
chứng lời "tức tâm minh" nói : "Đâu quí đâu tiện, đâu
nhục đâu vinh, đâu đắc đâu thất, đâu trọng đâu khinh,
một đạo hư tịch, vạn vật bình đẳng".
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nói chứng cũng giống như được
chứng, nhưng vì sự chứng quá giống nhau đi, lại trở thành
không giống nhau rồi. Vậy thế nào là chỗ không giống nhau?
Thử xác định xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Hét ra tiếng sét khó bịt tai,
Tò vò vác biển vào mi muỗi.
Heo bùn, chó ghẻ cùng mở mắt,
Tam thế Như Lai trọn chẳng
hay.
31. ĐẠI ĐẠO
THỂ KHOAN, VÔ DỊ VÔ NAN
DỊCH
Bản thể đại đạo rộng
khắp hư không, chẳng có khó dễ đối đãi.
LỜI KHAI THỊ
Trộm được y bát vào tay,
biết nói "chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động",
ngoài y-kim-lan ra còn có vật gì khác? Xô ngã cây nêu trước
cửa, hai ông này vô sự sanh sự, dối người dối mình. Bổn
lai không kẽ hở, xuyên tạc chẳng dính dáng. Có hiểu được
chăng?
Một lần gặp nhau một lần
già,
Một lần gió thổi một lần
lạnh.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "ĐẠI ĐẠO THỂ
KHOAN, VÔ DỊ VÔ NAN", người nghĩa giải cho rằng : Việc này
vốn bao trùm nhựt nguyệt hư không, Phật Tổ chẳng biết
tên, đại địa chở không nổi, như trời che khắp, như đất
nâng khắp, mỗi mỗi viên mãn, người người đầy đủ, đâu
còn khó dễ gì để nói! Đây nói KHÓ DỄ là tại người
chẳng tại pháp, hễ tin tự tâm là Phật thì dễ, chẳng tin
tự tâm là Phật thì khó.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Theo sự thấy nghe của tôi
lại khác; Hễ tin tự tâm là Phật thì khó, chẳng tin tự
tâm là Phật thì dễ, vậy cái lý cao tột ở chỗ nào? Lời
này hãy gác lại, cũng như Bàng Cư Sĩ nói : "Khó, khó, mười
giạ hạt mè bày ra trên cây", Bà Bàng nói : "Dễ, dễ, ý Tổ
Sư trên đầu trăm cỏ". Linh Chiếu nói : "Chẳng khó cũng chẳng
dễ, đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ". Chỗ này nếu phân biệt
được 3 cái lưỡi hay dỡ của họ, thì sự khó dễ có thể
ngay đó lãnh hội. Nếu không, dẫu cho ngươi hiểu theo lời
nói, nói "chẳng dễ chẳng khó", đâu khác gì con lừa mù muốn
đuổi kịp theo bầy, vừa bước chân đã không có đường
để đi rồi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Bày mè trên cây, mệt thì ngủ,
Nói "đầu trăm cỏ" của ý
Tổ.
Ba người đều là không có
mắt,
Mò rào mò vách lúc nào thôi.
32. TIỂU KIẾN
HỔ NGHI, CHUYỂN CẤP CHUYỂN TRÌ
DỊCH
Sự thấy nhỏ hẹp có chút
hồ nghi, muốn gấp lại càng trễ.
LỜI KHAI THỊ
Chuyển tự kỷ vào sơn hà,
trâu sắt chìm đầm to; chuyển sơn hà vào tự kỷ, voi già
lún bùn sâu. Tự kỷ sơn hà ném bỏ một lượt, lò rèn các
nơi không thể thiết lập. Có thiết lập, chẳng khác nắm
tay dọa trẻ con.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "TIỂU KIẾN HỔ
NGHI, CHUYỂN CẤP CHUYỂN TRÌ", người nghĩa giải cho rằng
: Tất cả chúng sanh, từ trước khi kiếp-không (chưa có trời
đất) đã cùng tam thế chư Phật đồng thành chánh giác, vốn
chẳng thiếu kém, vì tâm này không rõ, tự rơi vào ngu mê
mà chẳng biết. Thế nên, chư Phật chư Tổ dùng trăm ngàn
phương tiện dẫn dắt khích lệ, khiến họ ngộ nhập. Sở
dĩ nói : "Vì một đại sự nhân duyên xuất hiện trên đời",
là việc này vậy. Bởi do người chẳng tin tự tâm là Phật
mà muốn tìm cầu ở ngoài tâm, cho nên bị quở là TIỂU KIẾN.
Phải biết tâm này vốn sẳn đầy đủ, nói là "mau được
thành Bồ Đề" đã thành lời thừa, thật ra đâu có sự mau
hay trễ ư!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Thế thì, hiện nay gọi cái
gì là Phật? Nếu chỉ bày không ra, bệnh ở chỗ nào?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Trời há cho ngồi đáy giếng
dòm,
Tận cùng sức thấy cũng thành
nghi.
Trở mình nhảy ra ngoài hư
không,
Nhướng mày mở mắt đã trễ
rồi.
33. CHẤP CHI THẤT
ĐỘ, TẤT NHẬP TÀ LỘ
DỊCH
Chấp thật thì lạc mất tông
chỉ, ắt phải rơi vào đường tà.
LỜI KHAI THỊ
Núi vô trùng số (bất nhị),
nước vô trùng số, Thiện Tài ở trong tiếng khảy móng tay
thấy lầu các của Ngài Di Lặc cũng vô trùng số, Chơn nhân
Vô-Địa-Vị giữa đường gặp thấy việc bất bình, dùng
cây gậy gạch một gạch trên không, mười vạn tám ngàn đường
lối nắm gom một lượt, rồi quày đầu lại hét to rằng
: "Tình xuyên lịch lịch hán dương thọ, phương thảo thê
thê Anh-Võ-Châu".
(Cỏ non biêng biếc đảo Anh-Võ,
Nắng dọi Trường Giang cây
Hán Dương).
Vì sao như thế? há chẳng thấy
Tổ Sư nói: "CHẤP CHI THẤT ĐỘ, TẤT NHẬP TÀ LỘ".
LỜI NGHĨA GIẢI
Gần đây có một số người
ở vào địa vị làm thầy, thấy người nói "Khán thoại đầu
của cổ nhân, làm công phu miên mật, chẳng uổng phí thời
gian để tham cứu việc mình", liền dẫn chứng hai câu này
để bài xích, đối với "CHẤP CHI THẤT ĐỘ", cho là Phật
Pháp đâu có việc này, bởi tất cả sẳn sàng, sao chẳng
tự nhận lấy? Lại cố làm bộ điệu của người chết làm
chi!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nói thế cũng đúng, nhưng không
xét đến nguồn gốc, chẳng biết ý Tổ Sư là trách cái chấp
sau khi ngộ. Há chẳng thấy Phật Nhãn nói : "Có một hạng
người cỡi lừa tìm lừa, lại có hạng người biết được
là lừa rồi mà cứ cỡi mãi không chịu xuống", chính là
nói hạng người này chấp lý đã ngộ mà chưa thể quên.
Bên ngoài chấp pháp sở ngộ, bên trong chấp tâm năng ngộ,
cổ nhân quở là pháp trần, cũng là gai gốc tri kiến. Cho
nên Dược Sơn nói vừa có sở trọng, liền thành hang ổ,
đều là chấp lý đã ngộ, khiến cho lý ngộ chẳng quên,
cho là thật có việc này. Do thấy pháp chẳng viên thông, thành
sở chấp của ngoại đạo. Đang mê mà cầu ngộ thì dễ,
đã ngộ muốn quên lý thì khó, nếu không gặp bậc đạo
sư chơn chánh thẳng tay gông cùm tay chân, đánh đập thống
thiết, thì rốt cuộc không thể đến chỗ tự thôi nghỉ.
Đối với thuyết này, ông có vừa lòng chăng?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Chấp tâm chưa hết hoa thường
rụng,
Thắt kết đã trừ, quả không
xa.
Cứ theo đường tà đi khi trước,
Quày đầu mới thấy mình trần
truồng.
34. PHÓNG CHI TỰ
NHIÊN, THỂ VÔ KHỨ TRỤ
DỊCH
Buông thì bản thể tự nhiên,
vốn chẳng có đi và ở. (Buông : vô trụ).
LỜI KHAI THỊ
Cơ xảo hướng thượng, câu
chuyển ngữ cuối cùng, cửa đã mở sẳn. Lòng từ của chư
Tổ luôn luôn nhắc nhở hành giả tham thiền ngay đó liền
ngộ. Trăng nửa đêm chiếu trên cành hoa mai; ngộ được cứ
ngộ, rạng đông say rượu cỡi chim loan. Không cho là Phật
pháp cao siêu, cũng không cho là phổ biến việc đời, vậy
rốt cuộc như thế nào? Chẳng thấy Tổ Sư nói : "PHÓNG CHI
TỰ NHIÊN, THỂ VÔ KHỨ TRỤ" hay sao!
LỜI NGHĨA GIẢI
Người nghĩa giải cho rằng
: Tâm chấp đã trừ, tự nhiên tự do tự tại, chẳng chướng
chẳng ngại mà động như mây bay, tịnh như cốc thần, đã
vô tâm đối với này nọ, thì đâu có phân biệt đi ở? Kinh
Viên Giác nói : "Bất cứ lúc nào, chẳng khởi vọng niệm,
đối với vọng tâm, cũng chẳng ngưng nghỉ, trụ nơi cảnh
vọng, không cần hiểu biết, nơi không hiểu biết cũng chẳng
cho là chơn thật không hiểu biết". Được như thế thì gần
với đạo rồi, nghĩa là tình chấp thánh phàm đều sạch,
thì bản thể chơn thường hiển lộ, tuyệt hẳn cảnh duyên
hư vọng, tức là như như chơn Phật.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Chửi nhau cho ngươi tạt nước
cũng được, nếu đối với ý Tổ Sư, dẫu cho ngươi đem
tất cả Đại Tạng kinh điển đều mửa ra, cũng chỉ thành
nghiệp thức mênh mông mà thôi.
|