x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
LỜI
DỊCH GIẢ
Phật Thích Ca nói : "Mọi chúng
sanh đều có Phật tánh", tất cả Phật tử đều tin được.
Lại tin Phật tánh chẳng thể giảm bớt, cũng chẳng thể
gián đoạn, vì giảm bớt gián đoạn là sanh diệt luân hồi,
nếu Phật tánh còn phải luân hồi, thì kiến tánh thành Phật
cũng vô ích.
Phật tánh tức là tự tâm,
nếu người tin mình có Phật tánh, tức là tin tự tâm. Phật
tánh không thể giảm bớt, thì tất cả thần thông trí huệ
năng lực saün đầy đủ bằng chư Phật. Phật tánh không
thể gián đoạn, thì mọi chúng sanh hiện đang làm Phật.
Vậy, Phật tánh tức là tự
tâm, thì tự tâm của mọi người đã saün đầy đủ tất
cả năng lực, bằng như chư Phật, thế thì việc lý giải
đều là thêm bớt cho tự tâm. Nên Tổ Trung Phong làm bài TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI này, cố tẩy sạch lý giải để
hiển bày chánh ngộ, cho bổn lai diện mục (tự tâm) trọn
vẹn hiện khắp không gian và thời gian.
Quyển TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨA
GIẢI này trích từ Quảng Lục gồm 30 quyển của ngài Trung
Phong, in trong tập số 499 của Tích Sa Đại Tạng Kinh.
Vì có người chỉ đem phần
nghĩa giải trong MINH này in ra phổ biến, mà lược bỏ những
phần khai thị và phủ nhận của ngài Trung Phong, thành điên
đảo Phật pháp, liên lụy Tổ Sư, nên chúng tôi dịch hết
toàn bộ (gồm 4 phần : khai thị, nghĩa giải, tịch nghĩa giải
và kệ kết thúc), để hiển bày ý chính của Tổ, mong độc
giả xem xét cho kỹ!
THIÊN MỤC
TRUNG PHONG HÒA THƯỢNG
QUẢNG
LỤC
TÍN TÂM
MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
BÀI
TỰA CỦA NGÀI TRUNG PHONG
Từng nghe Sơ Tổ Đạt Ma nói
đạo trực chỉ bất lập văn tự, nhưng vừa truyền qua hai
đời đến đời thứ ba là tổ Tăng Xán, thì lại làm ra bài
TÍN TÂM MINH gồm 584 chữ. Vậy có phải là biến gia phong của
chư tổ trở lại kiến lập văn tự chăng? Hoặc nói chẳng
phải, ấy chỉ là muốn hiển bày cái đạo trực chỉ cho
hành giả đời sau được đầy đủ chánh tín, phá tà chấp
mà thôi.
TÍN là gì? Là tin bản thể
tự tâm rộng lớn như chư Phật, cùng khắp không gian thời
gian, khiến cho được tự tin mà ngộ nhập, chẳng nhờ tu
chứng; nghĩa là hễ bước vào cửa tin, quyết chẳng lui sụt,
nên bài TÍN TÂM MINH nầy với thuyết BẤT LẬP VĂN TỰ của
tổ sư trải qua bao đời chẳng trái nhau. Như thế, sự lập
ngôn của Tam Tổ thực là chí thành để gánh vác pháp thiền
trực tiếp này. Nhưng tiếc rằng những học giả đời nay
thường kẹt nơi nghĩa giải, chẳng thể hoát nhiên tự ngộ
diệu tâm, thấu rõ nguồn gốc, hợp với chánh tín, lại đem
bài TÍN TÂM MINH này làm dẫn chứng đàm luận, giống như
mạt vàng rơi vào mắt, thành ra nghịch lại ý Tổ mà chẳng
tự biết. Do đó, tôi soạn ra bài này, mỗi đoạn 2 câu, dùng
lời và kệ để sáng tỏ bản ý của Tổ, không dám khoe khoang
kiến văn cho là thù thắng. Thực ra chỉ muốn quét sạch nghĩa
giải, hiển bày chánh ngộ, nhắc nhở người đồng tham, khích
lệ chính mình mà thôi. Nếu có người cảm thấy không vừa
ý, thì tội của tôi làm sao tẩy sạch, cho nên đặt tên bài
này là "TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI".
CHÁNH VĂN
l. CHÍ ĐẠO VÔ NAN, DUY HIỀM
GIẢN TRẠCH
DỊCH
Đạo cùng tột chẳng có gì
khó, chỉ vì phân biệt mới thành khó.
LỜI KHAI THỊ
Thể dụng của tự tánh cùng
khắp hư không, trí tuệ của con người chẳng thể suy lường.
Mở cửa nhà lớn nhiệm mầu vô biên, vượt trên vạn trượng
chiều sâu mà không đáy. Cơ xảo của chư Tổ như : Tiếng
hét Kim Cang Vương của Lâm Tế sấm sét oanh liệt, muốn nhìn
bóng cũng còn khó, huống là thấy hình; Uy thế cây gậy của
Đức Sơn như gió bão điện chớp, đuổi theo không kịp. Đào
tạo ra chư Tổ chẳng cho mình có công lao, gánh biển vác núi
chẳng cần ra sức. Ông già Thích Ca thuyết pháp 49 năm, bàn
tay chỉ có thể nắm bắt hư không, 1700 Bạch-niêm-tặc (ám
chỉ Tổ Sư đã kiến tánh triệt để) có miệng chỉ có thể
treo trên vách tường. Rất saün sàng mà khó hiểu biết, muốn
ngay trước mặt chỉ bảo họ, thì gai gốc đã nổi đầy
trước cửa.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "CHÍ ĐẠO VÔ NAN,
DUY HIỀM GIẢN TRẠCH". Người nghĩa giải rằng : 2 câu nầy
là cương yếu, cũng là bản chỉ của bài MINH. Nhưng một
chữ TIN bao gồm ngộ chứng, chẳng phải chữ tin của tín
hạnh. Cũng như các vị trong hội Pháp Hoa, lãnh hội quyền
trí nhập vào thật trí, lập ra Phẩm Tín Giải để tỏ bày
nguyện vọng. Chư Tổ thấy đó gọi là Chí-đạo, Chư Phật
chứng đó gọi là Bồ-đề, chúng sanh mê đó gọi là Vô-minh,
giáo môn hiển bày đó gọi là Biển-giác, đều là tên gọi
khác biệt của một tâm, cho đến bao gồm danh tướng, thấu
nhập sắc không, muôn ngàn đề mục, đường lối dù khác
nhau, đâu có sai trái tốt xấu, cũng không có ngăn cách mê
ngộ, tất cả đều do đây mà hiển bày. Như cây bách của
Triệu Châu, vòng kim cang của Dương Kỳ, cái chậu đất bể
của Mật Am, bánh sắt có nhân của Đông Sơn, giống như dị
đoan cùng tà pháp sôi nổi, vậy thì biết lời nói "CHÍ ĐẠO"
đã hiện hành rồi. Do đó, thông suốt lý sự, dung thấu cổ
kim, cho là "VÔ NAN" đã thành lời thừa. Nhưng thánh phàm nhiễm
tịnh, trước mắt toàn chân, nếu sanh ra tình thức phân biệt
thì trái hẳn với chí-thể (tự tánh), nên mới nói "DUY HIỀM
GIẢN TRẠCH" vậy. Lời văn sau này dù khác, thảy đều không
ngoài ý này.
TỊCH NGHĨA GIẢI (tịch
là phủ nhận), RẰNG
Hình như giống nhau, giống
mà chẳng đồng. Lại, hai chữ CHÍ ĐẠO, dẫu cho ông dùng
hết ý thức để giải thích, đối với tông chỉ của VÔ
NAN, cần phải tương ưng mới được. Nếu chẳng phải tự
tâm khai ngộ, âm thầm khế hợp bất khả tư nghì, dứt hẳn
tri kiến, siêu việt ngữ ngôn danh tướng, muốn trông thấy
tông chỉ của VÔ NAN, chẳng những xa cách như trời với đất,
ở nơi căn và cảnh tương đối, đủ thứ sai biệt, nếu
không thể ngay đó giải thoát, mà muốn đem cái đạo lý vô
nan không giản trạch đó tồn chứa trong lòng, thì đâu chỉ
nhận giặc làm con mà thôi! Nên ở đây chẳng thể quên lời.
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Chí đạo không nên chê lựa
chọn,
Chớ nói lựa chọn đọa phàm
tình.
Cần phải đâm mù mắt mẹ
đẻ.
Ban ngày đốt đèn đọc "MINH"
này.
2. ĐẢN MẠC TẮNG ÁI,
ĐỒNG NHIÊN MINH BẠCH
DỊCH
Chỉ đừng yêu ghét thì rõ
ràng minh bạch.
LỜI KHAI THỊ
Thẳng chẳng phải tùng, co
chẳng phải gai, thông chẳng phải hư không, nghẽn chẳng phải
vách tường, là đầu búa không lỗ ném ngay mặt. Trái lại,
thẳng vẫn là tùng, co vẫn là gai, thông vẫn là hư không,
nghẽn vẫn là vách tường, vậy trời xanh nước rộng dính
liền như cũ. Đêm qua người Ba Tư bắt được tên chánh tặc
Tây Thiên trong Nam Hải, đợi trời sáng đốt đèn xem, thì
ra Bác Hai Vương ở làng Đông.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ sư nói "ĐẢN MẠC TẮNG
ÁI, ĐỒNG NHIÊN MINH BẠCH", người nghĩa giải cho rằng : Chán
sanh tử, ham niết bàn là yêu ghét; bỏ phiền não, lấy bồ
đề là yêu ghét, hễ ở nơi pháp thánh phàm chẳng còn mảy
may cảm tình yêu ghét, thì tâm này tự nhiên minh bạch rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Thôi thôi! Dẫu cho ông tất
cả đều chẳng yêu ghét, không màng luôn đến cái TA, nhưng
đâu biết cái chẳng yêu ghét đó đã thành yêu ghét rồi!
Nếu chẳng phải đích thân thấy chỗ đứng của Tổ Sư (kiến
tánh), cứ chú giải như thế, có đúng ý Tổ Sư từ Tây Trúc
đến chăng?
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Trời che, đất chở khắp mọi
nơi,
Mặt trời chiếu soi chẳng
thiếu sót.
Lại muốn ngồi trong nghĩa
minh bạch,
Chẳng biết hai chân dính nước
sình.
3. HÀO LY HỮU SAI, THIÊN
ĐỊA HUYỀN CÁCH
DỊCH
Xê xích mảy may, cách xa trời
đất.
LỜI KHAI THỊ
Có căn cứ nhất định, lại
không tiêu chuẩn phép tắc, đem hư không lấp hư không, dùng
mục đích phá mục đích, mua đá được ngọc, dẫu cho Lục
Tổ nói "Chẳng hội"; Đạt Ma nói "Chẳng biết", đều là
dời hoa rủ bướm, chỉ hai đường dây dưa này, đã dẫn
khởi gai gốc đầy trời. Bỏ gai gốc, Hải thần chẳng quí
Dạ-Minh-Châu, nguyên nắm ném thẳng vào mặt họ.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "HÀO LY HỮU SAI,
THIÊN ĐỊA HUYỀN CÁCH", người nghĩa giải cho rằng : Pháp
môn rộng lớn nầy, dù nói ngộ mê chẳng khác, nếu ngươi
còn mảy may tình cảm yêu ghét phân biệt chưa dứt sạch,
thì như trời với đất cách nhau quá xa rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Giải nghĩa như thế giống
thì giống, phải thì chưa phải. Tại sao? Vì còn thiếu một
tiếng "Ổ" (ngộ), dẫu cho ông mỗi mỗi không sai, lý hợp
với đạo, vẫn còn không khỏi cách xa như trời với đất.
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Nói chi có sai và không sai,
Đều thành dụi mắt thấy
hoa đốm.
Muốn lìa mảy may việc càng
nhiều,
Trời đất xưa nay vẫn cách
xa.
4. DỤC ĐẮC HIỆN TIỀN,
MẠC TỔN THUẬN NGHỊCH
DỊCH
Muốn được tự tánh hiện
tiền, chớ còn tập khí thuận nghịch.
LỜI KHAI THỊ
Hai không là đôi, một không
là chiếc, buông chẳng lìa, nắm chẳng hợp. Dương Kỳ 10
năm đúc thành vòng kim cương, Đạt Ma 9 năm nhìn vỡ vách
tường sắt. Lúc cổ Phật chưa sanh, bóng trăng hiện khắp
ngàn sông; khi vũ trụ đã thành, gió mát sung mãn mười phương.
Nói thuận chẳng thuận, nói
nghịch đâu nghịch,
Quải-giác-linh-dương ăn gậy
sắt, trái cân bóp ra nước vàng ròng (Con linh dương lúc ngủ
treo sừng trên cây, dưới đất không có dấu tích, thở không
ra tiếng, thợ săn khó tìm, dụ cho tự tánh không hình tướng
số lượng. Trái cân bóp ra nước là việc vô lý, tự tánh
ăn gậy sắt cũng là việc vô lý; hai không là đôi, một không
là chiếc..., đều là việc vô lý, pháp nào có thể lý giải
thì chẳng phải tự tánh).
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "DỤC ĐẮC HIỆN
TIỀN, MẠC TỔN THUẬN NGHỊCH". Người nghĩa giải cho rằng
: Tổ Sư nói đến đây thành có mâu thuẫn, tại sao? Việc
này vốn đã hiện tiền, còn muốn đắc cái gì nữa? Kinh
nói "Chánh tánh vô bất thông, thuận nghịch giai phương tiện
" (tự tánh khắp hư không chẳng có tương đối, nói thuận
nói nghịch đều là phương tiện). Ở đây nếu bảo "MẠC
TỔN" thì lại thành đoạn diệt rồi, thật ra ý Tổ Sư chẳng
phải vậy, chỉ dùng phương tiện khai thị cho hàng sơ học,
cũng như người no (đã ngộ) thì không thèm đồ ăn ngon vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Im đi, im đi! Tổ Sư ở dưới
gót chân ngươi, dẫu cho đạp một cái tan nát, vẫn còn phải
tham 30 năm nữa.
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Muốn được hiện tiền đuổi
theo vọng,
Chẳng còn thuận nghịch trái
vơi chơn.
Sung sướng, đau khổ quên phân
biệt,
Cũng là con mắt dính bụi trần.
5. VI THUẬN TƯƠNG TRANH,
THỊ VI TÂM BỆNH
DỊCH
Thuận nghịch tranh nhau, ấy
là tâm bệnh.
LỜI KHAI THỊ
Bệnh chẳng phải tâm, tâm
chẳng phải bệnh, chớ đem cái cây hàng rào hữu lậu, cho
là cán gáo múc nước sông. Tâm chẳng lìa thân, cũng chẳng
phải tức là thân, cho là khác nhau thì bệnh càng nặng. Giải
thích công án " Nhựt diện Phật" của Mã Tổ thì bệnh nặng
càng nặng thêm. Chỗ tình chấp chưa dứt sạch thì dùng cam
lồ cũng có thể giết người; khi cơ phong khế hợp thì dùng
thuốc độc Tỳ Sương cũng cứu được mạng.
Từ khi phương thuốc đua nhau
truyền,
Đầu búa không lỗ sanh nhiều
bệnh.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "VI THUẬN TƯƠNG
TRANH, THỊ VI TÂM BỆNH", người nghĩa giải cho rằng : sanh
tử vô thường là tâm bệnh, kiến văn giác tri là tâm bệnh,
tham thiền học đạo là tâm bệnh, thành Phật làm Tổ là
tâm bệnh; cần phải quên cả thuận nghịch, bặt cả thánh
phàm, muôn niệm đều bỏ, một lối không tịch, chẳng nhờ
thuốc thần diệu quí báu, thì cái gọi là "tâm bệnh" đó,
tự nhiên không có chỗ đặt để rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Than ôi! Phật pháp suy đồi,
Tổ đình hoang vu, người bị mắc tâm bệnh cùng khắp thế
gian, đều là kẻ tri giải nhập tâm, chấp thuốc thành bệnh,
đó không phải là việc lạ, dẫu cho Kỳ Bà (thần y đời
xưa) tái thế cũng không cứu được bọn này.
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Thuận nghịch tranh nhau tâm
sanh bệnh,
Thuận nghịch đều quên bệnh
sanh tâm.
Xưa nay tâm bệnh chết liên
tiếp,
Lại khoe phương thuốc hay như
Thần.
6. BẤT THỨC HUYỀN CHÆ,
ĐỔ LAO NIỆM TỊNH
DỊCH
Chẳng biết huyền chỉ, uổng
công niệm tịnh.
LỜI KHAI THỊ
Cả đại địa là bánh xe sắt
lửa hồng, cả đại địa là đại viên cảnh trí, con chồn
con trâu nay vốn chẳng mê. Di Lặc, Thích Ca xưa cũng đâu chứng.
Mây trắng lững lờ chẳng nắm chẳng buông, mặt trăng qua
lại đâu động đâu tịnh; gom trần sa trong vòng pháp giới,
nhốt pháp giới trong hang Thái hư. Lúc một người phát chơn
quy nguyên (kiến tánh) thì mười phương hư không thảy đều
tiêu mất là thế nào?
Con tò vò nuốt mất núi Tu
Di,
Con khỉ giật mình xuất đại
định.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "BẤT THỨC HUYỀN
CHÆ, ĐỔ LAO NIỆM TỊNH". Người nghĩa giải cho rằng : HUYỀN
CHÆ tức chí đạo, thể đồng tên khác, nếu chẳng biết
được, dẫu cho niệm tịnh trải qua hằng sa kiếp tu chứng
đủ loại, cũng là ngoài tâm cầu pháp, chỉ tự thêm lao nhọc,
Tổ Sư cũng không chấp nhận.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Huyền Chỉ như kiếm bén Kim
Cang, kẻ chẳng biết cố nhiên là tán thân mất mạng, biết
được cũng không khỏi chạm nhằm bị thương. Vậy có phương
tiện nào tránh khỏi được hai lỗi này?
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Huyền chỉ có ai tự biết
được?
Thích Ca, Di Lặc còn đang mơ.
Đáng thương cho kẻ chìm không
tịch,
Cô đơn ở núi lạnh nhiều
năm.
7. VIÊN ĐỔNG THÁI HƯ,
VÔ KHIẾM VÔ DƯ
DỊCH
Tròn đồng thái hư, không thiếu
không dư.
LỜI KHAI THỊ
Vốn chẳng dư thiếu, lại
có tính toán. Trang Chu gọi "vạn vật là con ngựa", Long Môn
cho "mười phương là con lừa". Giống như chung một đường,
lại là chẳng cùng lối. Có nước mới được bóng trăng
hiện, vô tâm khó đắc Dạ-Minh-Châu.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "VIÊN ĐỔNG THÁI
HƯ, VÔ KHIẾM VÔ DƯ". Tòng lâm bàn nhau rằng : Tâm này nơi
Thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, tròn như hư không,
mỗi mỗi đầy đủ.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Nói như thế, khác chi người
đi tham học các nơi, ngồi chưa ấm chiếu, đem những lời
nầy chứa đầy bụng, chỉ có thể dùng để đàm luận mà
thôi, hễ gặp một việc nào có dính chút lợi ích của mình,
thì cái niệm so sánh đắc thất nổi dậy ùn ùn, muốn khiến
cho "VIÊN ĐỔNG THÁI HƯ" đâu có thể được! Đối với việc
này cần phải diệu ngộ, ngộ rồi đâu còn cảnh thứ hai
để làm đối đãi ư!
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Tò vò làm ổ trên mi muỗi,
Muốn cùng đại bàng nối cánh
bay.
Nếu cho hư không chẳng thiếu
kém,
Mở mắt bị nhốt trong chiêm
bao.
8. LƯƠNG DO THỦ XẢ, SỞ
DĨ BẤT NHƯ
DỊCH
Bởi do thủ xả, cho nên bất
như (như là đúng như tự tánh).
LỜI KHAI THỊ
Tiến Phước nói "Mạc" (đừng),
Triệu Châu nói "Vô" (không), Tuyết Phong phóng ra con ba ba Nam
Sơn, Vân Môn đánh chết cá Lý Ngư Đông Hải. Hưng Hóa đi
dự trai tăng thôn làng, vào trong cổ miếu tránh gió bão; Đơn
Hà thiêu Phật gỗ, làm cho viện chủ rụng lông mày... Những
việc kể trên, đã nghi chết biết bao đại trượng phu.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "LƯƠNG DO THỦ
XẢ, SỞ DĨ BẤT NHƯ". Người nghĩa giải cho rằng : Tâm này
đã tròn như thái hư, không thiếu tướng nào, tất cả đều
"NHƯ". Nếu ngươi ở trong pháp nhiễm tịnh vừa sanh tâm thủ
xả, thì "BẤT NHƯ" rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI,
RẰNG
Nếu là bậc tu sĩ tham học
chơn chánh, thấy người nói những lời này, liền phun nước
miếng vào mặt họ mà chẳng phải tánh nóng, vì tượng rồng
chẳng thể làm mưa được.
KỆ KẾT THÚC,
RẰNG
Hai việc thủ xả đã bất
như,
Con trâu ai dám gọi con lừa.
Bản thể kim cang khắp pháp
giới,
Cũng là dưới hàm trồng lại
râu.
|