x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
62. BẤT NHỊ
GIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG
DỊCH
Bất Nhị chẳng phải đồng,
Nhị mới có bao gồm.
LỜI KHAI THỊ
Tổ tổ tâm không, Phật Phật
đạo đồng. Tâm không thì các ngôi sao cùng hướng về Bắc
Đẩu, đạo đồng thì muôn dòng nước đều chảy vào Biển
Đông. Hưng Hóa hôm qua dự trai tăng trong làng, đạo ta nhất
quán; Đức Sơn đêm nay không trả lời, Công án hai lớp. Bắt
Hổ dữ, phân rắn rồng, chẳng phí chút sức của Hải Thần;
Nổ sấm sét, phủ mây mù, tiêu hao Long Vương bao nhiêu gió.
Mũi kim gọt sắt đè chìm đại địa, vắt nước chỉ mành
ngập khắp hư không. chẳng cán nắm, tuyệt cũi lồng, sông
Thiền vốn chẳng có đò đưa, vách sắt đâu có cửa nẻo
thông.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ sư nói : "BẤT NHỊ GIAI
ĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG", hạng người hiểu theo văn tự cho
rằng : Kinh Pháp Hoa nói : "Chỉ một sự thật này, ngoài ra
đều chẳng chơn". Còn nói : "Tất cả chư Phật chỉ một
Phật thừa, chẳng hai chẳng ba". Nói MỘT là diệu tâm sáng
tròn, thể lìa tu chứng, dọc gồm tam thế, ngang thấu mười
phương, sắc, không, sáng, tối lấy đó làm nguồn, thánh phàm
mê ngộ lấy đó làm gốc. Cho đến cùng khắp pháp giới,
nếu thấy có mảy may chẳng do đó sanh khởi, đều là sở
chấp của ngoại đạo, cho nên nói "Sum la và vạn tượng do
một pháp ấn định". Lời "BẤT NHỊ GIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAO
DUNG" chẳng thể ở ngoài nghĩa này.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nói như thế, tất cả ngôn
giáo đã ghi đầy đủ, đâu cần Tổ Sư từ Tây Trúc sang!
Phải biết, ngôn giáo như bức tranh hoa của Triệu Xương,
cao thấp xa gần, búp nở đậm nhạt, xem rất đẹp mắt, nhưng
chẳng phải hoa thật vậy. Nếu chưa thể nơi gót chân một
dao cắt đứt cuộn chỉ rối, thì đối với tông chỉ "BẤT
NHỊ GIAI ĐỔNG", đâu thể chỉ miệng nói tai nghe mà đắc
được ư!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Vàng ròng đúc thành trứng
gà trống,
Đập nát y xưa vẫn còn nguyên.
Chẳng biết có gì bao trong
đó,
Suốt đêm tia sáng rọi càn
khôn.
63. THẬP PHƯƠNG
TRÍ GIẢ, GIAI NHẬP THỬ TÔNG
DỊCH
Người trí mười phương, đều
vào tông này.
LỜI KHAI THỊ
Chí thần vô công dụng, chí
thể chẳng hỗn dung, như chuông nơi chánh điện, lỗ tai chẳng
nghe động tịnh. Như mùa xuân đến vườn, nhánh hoa tự trắng
tự hồng. Ngũ vị quân thần của Động Sơn, đàn tấu trước
khi chưa phổ nốt nhạc; bốn thứ chiếu dụng của Lâm Tế,
là gia phong đánh roi sắt, vạn linh khó lường. Châu ngọc
xoay chuyển trước đường cơ xảo, gió bay sấm sét, mở mắt
trên đỉnh đầu. Suy nghĩ chẳng đến, nhanh cũng khó gặp.
Sắp xếp cổ Phật lìa hang
ổ.
Đánh cho rắn chết hóa thành
rồng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ sư nói : "THẬP PHƯƠNG
TRÍ GIẢ, GIAI NHẬP THỬ TÔNG", người nghĩa giải dẫn chứng
Kinh Hoa Nghiêm nói : "Cảnh giới của Như Lai, vô lượng bằng
hư không, tất cả chúng sanh vào, kỳ thật chẳng chỗ vào".
Kinh Viên Giác nói : "Những người năng nhập. Nếu có năng
nhập thì chẳng phải giác nhập". Phải biết, tông này tất
cả chúng sanh vốn đã thâm nhập, đâu có lý nào lại nhập
nữa! Chúng sanh đã như vậy, thì người trí không nên lại
có sở nhập. Vĩnh Minh nói : "Tâm chơn như vốn chẳng thể
lìa", nhưng kẻ mê dụ là xuất, kẻ ngộ dụ là nhập, làm
cho mê ngộ tương đối, thật đâu có sự xuất nhập ư!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Hãy gác lời này lại! Ông
có từng ngộ chưa? Đợi ông chân thật có chỗ ngộ, mới
thấy lời của Tổ Sư không dối.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đồng nói tông này khó được
diệu,
Người trí mười phương cứ
bàn nhau.
Nếu chưa buông tay rơi vực
thẳm,
Chỗ nhập đâu khác địa ngục
môn.
64. TÔNG PHI XÚC
DIÊN, NHẤT NIỆM VẠN NIÊN
DỊCH
Tông chỉ chẳng có ngắn dài,
muôn năm một niệm, niệm muôn năm.
LỜI KHAI THỊ
Càn là trời, Khôn là đất,
thiền chẳng khác giáo; dương là kỳ, âm là ngẫu, giáo đâu
lìa thiền. Chỉ vì so đo với nhau, khiến con rắn uốn quanh
cùng mình, người chuyên Nhất tâm tam quán, người hay trực
chỉ đơn truyền. Nín như núi vách, nói như trời xa, bị kẻ
không mặt mũi gặp thấy bất bình, chặn ngang hét một tiếng,
khiến cho Đạt Ma cùng Thiên Thai Hiền Thủ câm miệng nín
thở, thỏng tay vào thành.
Mỗi người tự quét tuyết
trước cửa,
Chớ đem vô minh thấm thức
điền.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "TÔNG PHI XÚC DIÊN,
NHẤT NIỆM VẠN NIÊN", người nghĩa giải cho rằng : Tổ Sư
lấy nhất tâm làm tông, trong pháp giới nhất tâm, cho kiếp
là ngày mà chẳng rút ngắn, cho ngày là kiếp mà chẳng dài
thêm. Nên xem l niệm là muôn năm, chuyển muôn năm thành l niệm,
chẳng dài chẳng ngắn, chẳng ít chẳng nhiều, đâu phải
do thần thông mà ra. Chỉ vì pháp vốn như thế.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Xưa kia có người trí nhà Nho,
cho bài "Thọ yểu bằng nhau" là vọng tác, cho "tử sanh như
một" là hư dối. Nếu họ biết có cái thuyết "Một niệm
muôn năm", lại càng thêm kinh ngạc. Ấy cũng chẳng lạ gì,
bởi chơn tục chẳng cùng lối mà thôi. Người xưa nói : "Nói
Chơn thì nghịch với tục, thuận tục thì trái với Chơn",
há chẳng đúng ư! Làm sao khiến họ xé rách lưới tục, cắt
đứt căn trần, trở lại xem cái cơ xảo viên thường tự
tại, ngắn dài giúp nhau của Tổ Sư, thì cái lỗi lỡ lời
mới mong có thể tránh khỏi. Dù vậy, muốn chẳng kẹt nơi
ngắn dài, thử nói l câu xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Sát na muôn kiếp chẳng ngắn
dài,
Đo lường hư không nói tròn
vuông.
Cứ ngay khi ấy chấp là thật,
Đứng xa ngoài cửa giành đúng
sai.
65. VÔ TẠI BẤT
TẠI, THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN
DỊCH
Chẳng phải có chỗ, chẳng
phải không chỗ, mười phương hư không, chính là trước mắt.
LỜI KHAI THỊ
Cảnh Thanh sáu cửa, Lâm Tế
tam huyền. Thiên Long giơ ngón tay, Am Chủ dựng nắm tay. Chỗ
có Phật chẳng được trụ. Xoá hết Tây Thiên và Đông Độ;
chỗ không Phật mau chạy qua, đánh bên Nam, động bên Bắc,
chứng chỉ lãnh xong, sáu cửa vắng lặng.
Mở cửa thả ra hạt Dương
Châu,
Chẳng cần đem theo mười vạn
tiền.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "VÔ TẠI BẤT TẠI,
THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN". Hoặc có người dùng ý thức suy
lường rằng : Tâm chẳng hình tướng, đạo tuyệt bờ bến.
Ngay nơi hình tướng mà chẳng ngại mỗi mỗi phân thân; dựa
nơi bờ bến mà đâu ngại trần trần hiển lộ! Trần trần
hiển lộ, chẳng lìa chỗ ở thường trạm nhiên; Mỗi mỗi
phân thân, tìm mãi biết ông chẳng thể thấy. Ở đây, cái
ý chỉ "VÔ TẠI BẤT TẠI, THẬP PHƯƠNG MỤC TIỀN" đã rõ
ràng rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Người nói lời này, đối
với việc bị mắng là "dòm bóng để trộm ánh sáng", thiếu
một phần cho y cũng không được. Nếu chẳng thể đích thân
hạ thủ phá vở hàng rào thiết vi, mà muốn thấy ý chỉ
VÔ TẠI BẤT TẠI của Tổ Sư, khác gì đi Trịnh Châu ra cửa
Tào Châu!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
"Ngay chỗ chẳng lìa" là vật
gì?
Lấp bít bốn phương khắp
thái hư.
Ném ngay trước mặt chẳng
che giấu,
Khiến kẻ nhìn thấy bị mắt
mù.
66. CỰC TIỂU
ĐỔNG ĐẠI, VONG TUYỆT CẢNH GIỚI
DỊCH
Cực nhỏ đồng lớn, quên
hẳn cảnh giới.
LỜI KHAI THỊ
Đầu Tử nói "Hoại", Đại
Tùy nói : "chẳng hoại". Đoạ hai quan ải này, đụng đâu
đều chướng ngại. Không chướng ngại, chỉ cần đem hai
câu ghép thành một chỗ xem, bèn thấy hạt bụi chẳng nhỏ,
hư không chẳng lớn.
Công án saün sàng tuyệt che
giấu.
Đáy thùng vì sao chẳng chóng
lũng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "CỰC TIỂU ĐỔNG
ĐẠI, VONG TUYỆT CẢNH GIỚI", người nghĩa giải cho rằng
: Trước nói "VÔ TẠI BẤT TẠI" tức là đề mục của "CỰC
TIỂU ĐỔNG ĐẠI, CỰC ĐẠI ĐỔNG TIỂU", nên Kinh Lăng Nghiêm
nói : "Trên đầu sợi lông hiện cõi Phật, ngồi trong hạt
bụi chuyển pháp luân". Nếu chẳng thấu đạt ý chỉ "VÔ
TẠI BẤT TẠI", thì đụng đâu cũng bị kẹt nơi cảnh giới.
Đã bị kẹt nơi cảnh giới thì đâu có lý nào quên hẳn
được! Đã chẳng thể quên hẳn cảnh giới thì lớn có tướng
lớn, nhỏ có tướng nhỏ, đâu thể dung nhiếp thành một!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Chỉ như người quên hẳn cảnh
giới, còn thấy lớn nhỏ hay không? Nếu nói thấy thì chưa
thể quên hẳn; nếu nói không thấy thì đâu khác chi người
gỗ đất? Thử nói xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tu Di chứa bụi người đều
nhận.
Bụi chứa Tu di Phật cũng nghi.
Dẫu cho kiến giải siêu tình
lượng,
Khắc thuyền mò kiếm đã chậm
trì.
67. CỰC ĐẠI
ĐỔNG TIỂU, BẤT KIẾN BIÊN BIỂU
DỊCH
Cực lớn đồng nhỏ, chẳng
thấy bờ mé.
LỜI KHAI THỊ
Đắc được chẳng phải đắc,
thấu rõ đâu có rõ. Tâm địa hoa nở nơi tuyết xuân, Tánh-Thiên
nắng rọi băng-hồ (dụ cho Vũ Trụ) sáng, Kim Phụng bay liệng
trên nhánh chưa mọc, voi ngọc nhiễu quanh bên cây không bóng.
Bá Trượng giúp ông lão giải thoát thân chồn, nghèo nuôi
một thân đã là nhiều; Văn Thù chẳng thể xuất định cho
cô gái, giàu chê ngàn người ăn vẫn còn ít. Chỉ biết cách
núi thấy khói, ai hỏi ra cửa là cỏ. Tất cả saün sàng,
không cần tìm kiếm, dẫu trong giày ống chơi kềm búa, cũng
là trước cửa đi quanh quẩn.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "CỰC ĐẠI ĐỔNG
TIỂU, BẤT KIẾN BIÊN BIỂU". Hạng người nghĩa giải cho rằng
: Xưa kia Duy Ma Cật dùng thần lực giải thoát bất tư nghì,
đem 32 ngàn tòa sư tử để trong phòng trượng thất, mà phòng
nhỏ chẳng thấy chật, tòa lớn chẳng rút nhỏ. Rồi dùng
tay phải hái lấy thế giới Diệu Hỷ để vào phòng, nói
với đại chúng rằng : "Thế giới kia chẳng lay động, thế
giới này chẳng biến đổi". Đem lớn vào nhỏ, đem nhỏ vào
lớn, dung nạp lẫn nhau, phi bỉ phi thử.
Theo kinh nói, thần lực giải
thoát bất tư nghì này suốt kiếp chẳng hết, nhưng thần
lực này đều từ diệu tâm sáng tỏ chảy ra. Hoặc có người
nói : "Nay tôi cũng từng ngộ diệu tâm sáng tỏ này, tại
sao chẳng có thần lực? Hoặc đáp rằng : "Phải biết, thần
lực này vốn tự đầy đủ, chẳng cần tu chứng, sở dĩ
chưa thể hiện tiền vì kẻ sơ tâm nhập đạo, nơi sức định
huệ giải thoát chưa đầy đủ. Dù chưa đầy đủ, nhưng
bổn giác trong tâm cũng chưa từng mất, khi cơ duyên đến,
sẽ tự hiện mà thôi". Dù nói cơ duyên đến, song cũng không
được giữ một niệm tâm đợi chờ. Nếu còn có tâm đợi
chờ, liền rơi vào dị kiến. Ví như trẻ sơ sinh, chưa rời
tấm tã mà muốn gánh nặng đi xa, có thể được ư? Dù chẳng
thể gánh nặng đi xa, nhưng đối với việc gánh nặng đi
xa chưa thể hiện tiền, đâu có nghi ngờ kinh sợ gì! Kẻ
chơn tham thật ngộ nghe nói thần lực này, tự nhiên chẳng
nghi ngờ kinh sợ. Nếu còn một mảy may nghi ngờ kinh sợ tồn
chứa trong tâm, thì tâm này chưa từng khai ngộ.
Gần đây, bậc tăng sĩ hành
cước, chẳng cầu chánh ngộ, chỉ quý biện tài, lại bậc
ở địa vị làm thầy, phần nhiều thuận theo trào lưu, đối
với hành giả tham thiền, không dùng cơ xảo nghiêm khắc đánh
đập, ai nấy cùng nhau đuổi theo vọng tình, khiến cho Bát
Nhã ở tòng lâm bị quét sạch chẳng còn gì! Thật đáng tiếc
thay!
Người có chí nên khắc khổ
tu hành, lấy đại ngộ làm kỳ hạn, mới báo đáp được
ơn sâu của Phật. Đức Phật đã từng nói hết những tệ
đoan ngày nay rằng : "Chúng sanh đời mạt pháp, hy vọng thành
đạo, chớ cho cầu ngộ. Vì người học rộng nghe nhiều,
chỉ thêm đa văn, tăng trưởng ngã kiến". Lời Phật dù đã
cách đây hơn 2000 năm, vẫn như hiện trên bàn tay, đủ thấy
lời của bậc Thánh chẳng dối chúng ta vậy!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Im đi, Im đi! Ông tưởng ngộ
rồi là xong ư? Dẫu cho ông chứng đắc thần lực giải thoát
bất tư nghì, trong l sát na đem mạng căn của ông già Duy Ma
Cật bóp nát. Nếu chưa thể quên được sở chứng của mình,
còn ngồi ở chỗ thần dị cho là thù thắng, thì phải đến
đây ăn gậy của lão tăng!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Lớn, nhỏ, mê, ngộ bặt dấu
tích,
Trăm ngàn thần lực thảy đều
quên.
Hành giả gặp ta giữa đường
hẹp,
Cây gậy đánh gãy chưa thể
tha.
68. HỮU TỨC
THỊ VÔ, VÔ TỨC THỊ HỮU
DỊCH
Có tức là không, không tức
là có.
LỜI KHAI THỊ
Nửa đêm giờ Tý, gà gáy giờ
Sửu, Thạch Nữ (làm bằng đá) may áo chẳng dấu nối, người
gỗ ham uống rượu Bồ Đề. Lúc xế chiều giờ Thân, mặt
trời lặn giờ Dậu, voi chúa đi sâu vào núi tuyết, sư tử
rống nơi đống lửa hồng. Ngày đêm 12 thời chẳng cần đếm
hết, 30 năm sau có người phân rõ. Vô vô vô chẳng vô, hữu
hữu hữu đâu hữu gọi là trúc bề thì phạm, chẳng gọi
là trúc bề thì trái. Phun hoa hương đầy áo, ông đã có cây
gậy, ta cho ông cây gậy, nắm bóng trăng trên bàn tay, tông
ta chẳng lập giai cấp, đâu cần cưỡng phân xấu đẹp! Một
trần khởi tam muội, nhiều trần nhập chánh thọ, gà vàng
đá nhau dưới cây san hô, chó ngọc ngủ trong nụ hoa Chiêm-bặc.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ sư nói : "HỮU TỨC THỊ
VÔ, VÔ TỨC THỊ HỮU", người nghĩa giải cho rằng : Hữu
chẳng tự hữu, Hữu là hữu của nhà Vô : Vô chẳng tự Vô,
Vô là vô của nhà Hữu. Hữu chẳng đơn chiếc, vô chẳng
độc lập. Người nói HỮU vì trước đã thấy VÔ, sau đó
mới nói HỮU. Nếu trong lòng trước chẳng thấy VÔ thì đâu
thể ở ngoài đối đãi khi không nói HỮU! Nên biết, vô chẳng
vô, vô tức là hữu; hữu chẳng hữu, hữu tức là vô. Lý
HỮU VÔ vốn cùng một nguồn, nơi một nguồn, nói HỮU thì
dư cái hữu, nói VÔ thì thừa cái vô. Hữu Vô dung nhau đường
nói cũng bặt, ấy là ý chỉ "trở về nguồn" vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Dù vậy, nếu chẳng phấn khởi
đại chí, bặt sự tương đối của hữu vô nơi chánh ngộ,
cứ khởi tâm phân biệt thì đâu có ngày được ý quên lời
ư!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Trong VÔ nói HỮU, hữu vẫn
vô,
Vật này khó vẽ vào họa đồ.
Tức cười Triệu Châu quên
trói buộc,
Nói càn : bên nhà treo hồ lô.
69. NHƯỢC BẤT
NHƯ THỬ, TẤT BẤT TU THỦ
DỊCH
Nếu chẳng như thế, ắt chẳng
cần giữ.
LỜI KHAI THỊ
Lâm Hòa Tịnh thích trồng mai,
Đào Uyên Minh chỉ trồng liễu. Cùng là một hạng cao nhã
đạm bạc, nhưng cả hai đều lọt vào hang ổ. Đâu bằng
kẻ không ý-chí, cắm một cọng cỏ trên miếng đất chẳng
âm dương, khiến hoa nở trước khi có ánh nắng mặt trời,
trái chín mùi sau khi sương tuyết. Các ngươi suốt ngày đêm
lẩn quẩn đoán mò trong đó, có thấy chăng? Thấy thì rất
kî dùng mắt nhặm, chưa thấy thì chẳng nên chạy lăng xăng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ sư nói :"NHƯỢC BẤT NHƯ
THỬ, TẤT BẤT TU THỦ", người nghĩa giải cho rằng : Đây
là lời dặn dò của Tổ Sư, nói phải có một niệm Chơn
thật tương ưng với diệu tâm sáng tỏ và khế hợp với
bản giác nguồn linh. Nếu chẳng như thế, dù cho biện tài
thao thao, đều là sở chấp của ngoại đạo. Hoặc nói : "Nếu
chẳng như thế" là quyết định muốn người khế ngộ chơn
tâm. "Ắt chẳng cần giữ" là có ý muốn chỉ kẻ chẳng cầu
chánh ngộ mà kẹt nơi ngôn thuyết cho là đắc chí. Nói ý
này cũng thông.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Vậy, như hai thuyết này nếu
chẳng thể quên thân xả mạng, thề quyết đại ngộ, khi
báo thân bỗng mất thì việc ta đâu còn! Chẳng biết người
học ở trong bóng mộng huyễn, dựa vào đâu mà chẳng tự
cảnh sách!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Hết chấp HỮU, VÔ, quên sắc,
không,
Kẻ trộm tự thú hiến tang
vật.
Rẻ bằng vàng ròng, quý như
sình,
Xót thương không chỗ để
vùi chôn.
70. NHẤT TỨC
NHẤT THIẾT, NHẤT THIẾT TỨC NHẤT
DỊCH
Một là tất cả, tất cả
là một.
LỜI KHAI THỊ
HAI NĂM là mười, HAI NĂM cũng
là bảy, pháp vốn chẳng định, lãnh hội do người. Gọi
chúng sanh là chư Phật, bản thể đâu sai; gọi chư Phật là
chúng sanh, lý cũng chẳng mất. Bỗng có người ra nói :
"Chúng sanh tự chúng sanh, chư
Phật tự chư Phật, đâu thể thánh phàm lẫn lộn"! Khiến
cho ông già Thích Ca khi không bị oan, chỉ cần nói với ông
ta : "Vô thỉ vọng lưu chuyển, đều do sự chấp này".
Định tánh phàm phu bị Phật
quở,
Thiên thủ Quan Âm xô chẳng
ra.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "NHẤT TỨC NHẤT
THIẾT, NHẤT THIẾT TỨC NHẤT", hoặc có người dẫn chứng
Kinh nói : "Một là một của tất cả, tất cả là tất cả
của một, nơi một chẳng ít, nơi tất cả chẳng nhiều, đây
là tâm và pháp cùng khắp, một với nhiều dung nhau, chẳng
do thần thông làm ra, ấy là pháp vốn như thế". Thuyết này
ghi đủ trong kinh sách, chẳng cần dẫn chứng, nói nhiều thêm
phiền, nơi đạo vô ích.
Phải biết, Tổ sư trước
tác MINH này, đến chỗ "BẤT NHỊ GIAI ĐỔNG, VÔ BẤT BAO DUNG",
e kẻ hậu học chẳng thông đạt lý viên dung, trước dùng
"dài ngắn tương tức (hổ tương), "kế dùng" lớn nhỏ tương
tức", kế nữa dùng "hữu vô tương tức", nay lại dùng "một
nhiều tương tức, đem vô biên thế giới dung thành pháp môn
bất nhị, khai thác vũ trụ của vạn vật, mở rộng quê hương
của chúng sanh, giúp cho hậu học chẳng cất bước mà đến,
chẳng cách mảy trần mà nhập, chẳng ra sức mà thành, chẳng
nổi niệm mà chứng nguyện đại từ đã thỏa mãn, công giáo
hóa cũng cùng khắp rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Dù vậy, kẻ mang bức tranh
ngựa đi tìm ngựa ngày càng thêm nhiều, phải làm sao xoay
mặt họ lại, luôn cả Tổ Sư cùng đuổi ra một lượt, mới
biết tri ơn báo ơn. Nếu không, ví như đuôi rùa dính sình
mà quét dấu, càng quét càng thêm. Giải nghĩa lời Tổ Sư
cũng giống như thế.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đại địa vò lại bằng hạt
gạo,
Công khai đánh trống mọi người
xem.
Mạt vàng trong mắt nếu chưa
trừ,
Muốn biết trắng đen cũng
khó khăn.
|