x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
54. CỨU CÁNH
CÙNG CỰC, BẤT TỔN QUỶ TẮC
DỊCH
Cùng tột cứu cánh, chẳng
còn qui tắc.
LỜI KHAI THỊ
Mười tấc là thước, mười
thước là trượng. Bên Đông mặt trời mọc, bên Tây mặt
trời lặn, hỏi khắp mọi người trong vô số quốc độ,
có ai chẳng biết? Tại sao nói đến Tổ Sư Thiền, mỗi mỗi
ngơ ngác như vách sắt? Còn có câu "Mạc hậu lao quan" rất
khó hiểu, chẳng ai che dấu cùng đưa ra một lượt. Ấy là
cái gì? Thật là oan uổng!
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "CỨU CÁNH CÙNG
CỰC, BẤT TỔN QUỶ TẮC", người nghĩa giải cho rằng : Hư
không, sắc tướng, lớn nhỏ, dài ngắn trong mười phương
pháp giới, tất cả đều là tự kỷ. Tùy chân bước, chẳng
rời điền địa của Tổ tông; tùy miệng nói, đều là chơn
lý của Cổ Phật. Cho đến ôm vợ mắng Thích Ca, say rượu
đánh Di Lặc, đều thành nhất hạnh tam muội, còn nói chi
khai, giá, trì, phạm v.v...? Nên Vĩnh Gia cũng nói: "Đại ngộ
chẳng kẹt nơi tiểu tiết".
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Thôi, thôi! Nói cũng nói được
quá rõ ràng, nhưng Diêm La Vương chỉ muốn bắt bọn nói những
lời này đến cho ăn gậy sắt. Việc này lợi hại ở chỗ
nào? Mọi người về nhà tự kiểm điểm xem.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tùy tay đem ra tùy miệng bàn,
Phóng túng tung hoành kim chỉ
nam,
"CHẲNG CÒN QUI TẮC" lại giữ
niệm,
Tụ tánh bất nhị thành hai
ba.
55. KHẾ TÂM BÌNH
ĐẲNG, SỞ TÁC CÂU TỨC
DỊCH
Khế hợp bản tâm thì tất
cả bình đẳng, năng tác sở tác đều tự dứt.
LỜI KHAI THỊ
Voi chúa quày đầu nhìn, sư
tử chụp ngược lại, Chơn chẳng che ngụy, khúc (co) chẳng
dấu trực (thẳng). Chỉ có tôn giả Kiều Trần Như suốt
năm tỉnh tọa, tỉnh tỉnh tịch tịch, cũng chẳng màng đến
tháng thiếu là 29, tháng đủ là 30, đêm khuya thi đậu tâm
không, thấu qua gai gốc khắp trời.
Nhàn dạo ngoài đồng mở mắt
xem,
Hàn mai hoa nở tự tịch mịch.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "KHẾ TÂM BÌNH
ĐẲNG, SỞ TÁC CÂU TỨC", người nghĩa giải dẫn chứng trong
kinh nói : "Pháp ấy bình đẳng, chẳng có cao thấp, ví như
thủy ngân rơi xuống đất, giọt lớn viên tròn lớn, giọt
nhỏ
viên tròn nhỏ, cả đại địa không có pháp nào chẳng tương
ưng với tự tâm". Lúc Như Lai thành đạo, quán lại hạnh
nghiệp tu hành từ nhiều kiếp đều như mộng huyễn, chẳng
có kẻ làm, cũng chẳng có kẻ không làm. Cho nên nói : "Tu
tập phạn hạnh như hoa đốm trên không; tọa nơi đạo tràng
như bóng trăng dưới nước, hàng phục quân ma trong gương,
thành tựu Phật sự trong mộng". Bởi do tâm này chưa thấu
rõ, ở nơi bình đẳng thấy bất bình đẳng, vì bất bình
đẳng nên tất cả sở tác do đó sanh khởi vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Kinh Viên Giác nói : "Tánh vốn
bình đẳng, người bất bình đẳng nói là bình đẳng, đã
đáng ăn 30 gậy, còn dẫn chứng bao nhiêu tri giải, lại càng
thêm bất bình đẳng.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đã đến quê nhà còn về đâu?
Nằm dài trong am nắng giọi
cao.
Trăm ngàn huyền diệu đều
quên mất,
Suốt ngày cửa mở chẳng ai
vào.
56. HỔ NGHI TỊNH
TẬN, CHÁNH TÍN ĐIỀU TRỰC
DỊCH
Hồ nghi dứt sạch, chánh tín
vững chắc.
LỜI KHAI THỊ
Trâu cày cấy, chó giữ nhà,
mèo bắt chuột, ngựa kéo xe, thấy lửa biết cháy, thấy nước
biết ướt, tại sao đối với tự tâm, mỗi mỗi tối như
dầu hắc? Nơi nghi lại thêm nghi, nơi chấp chồng thêm chấp.
Chẳng cần nghi, cũng đừng chấp, ai biết muôn ngàn sai biệt
này, tất cả thánh hiền từ đây nhập.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "HỔ NGHI TỊNH
TẬN, CHÁNH TÍN ĐIỀU TRỰC", người nghĩa giải cho rằng :
TIN có 2 thứ : Chánh tín và tà tín. Tin tự tâm là Phật, chẳng
cầu bên ngoài là chánh tín; chẳng tin tự tâm là Phật, khởi
tâm tìm cầu bên ngoài, dù có làm việc lớn, đều gọi là
tà tín.
Phải biết, chánh tín cũng
có nghi : vì chưa chứng đắc nên phát nghi. Niệm nghi từ cạn
vào sâu, lâu ngày không lui sụt, bỗng nhiên niệm nghi bùng
nổ, tất cả thấu rõ, gọi là đại ngộ. Nên biết ngộ
là quả của tín, tín là nhân của ngộ. Pháp sư Tăng Triệu
nói:
"Quả chẳng gồm nhân, vì nhân
thành quả". Thế thì, lúc TIN tức là lúc ngộ, lúc ngộ chẳng
khác lúc tin. Bài MINH gọi là TÍN TÂM, chính là ý này vậy.
Phải biết, người đại căn
khí vừa nghe đề khởi, như gặp vật cũ, thấu rõ nơi tâm.
Quần áo có thể quên mặc, tánh mạng có thể xả bỏ, mà
muốn bảo người ấy bỏ chánh tín, dù chốc lát cũng chẳng
thể được. Nên cổ nhân nói : "Giả sử bánh xe lửa, xoay
chuyển đỉnh đầu tôi, cũng chẳng vì khổ này, làm mất
tâm Bồ Đề. "Cái niệm chánh tín nếu thật vững chắc như
thế, thì đâu có lẽ nào chẳng được thân chứng!
Ngoài ra, nếu do tà tín mà
sanh nghi, nghi mãi không thôi thì phải sanh khởi kiến chấp
điên đảo, đuổi theo cảnh duyên hư vọng, ắt đọa địa
ngục vô gián.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Phải thì phải, nếu như TIN
tức là ngộ, thì ngộ phải lộn vào Nguồn Linh (tự tánh),
đã lộn vào Nguồn Linh, thì cái chữ TIN này, còn đặt để
ở chỗ nào? Nếu nói có chỗ để đặt thì xin chỉ ra xem!
Nếu không chỗ đặt, thì lời Tổ Sư cũng thành lời thừa
rồi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Gốc tin chẳng chánh khởi hồ
nghi,
Niệm nghi tan rã Chánh tín khởi.
Lời nói rõ ràng được tương
tự,
Cách xa Tổ Đình như chân trời.
57. NHẤT THIẾT
BẤT LƯU, VÔ KHẢ KÝ ỨC
DỊCH
Tất cả chẳng lưu giữ thì
không thể ghi nhớ.
LỜI KHAI THỊ
Đại tâm rộng như hư không,
đại trí sáng như mặt trời, đại nghi như đống lửa hồng,
đại pháp như vách tường sắt. Bị Lâm Tế tận sức hét
cũng chẳng thối lui, bị Đức Sơn thẳng tay đánh cũng chẳng
chịu ngừng. Cây cột dây dưa dựng sâu chắc, leo quấn nhánh
dây không thôi dứt. Ở trong đó có một kẻ ló đầu ra nói
: "Đêm qua bị tôi nhổ tận gốc rồi". Vậy, cây cột dây
dưa đã nắm trong tay, tính đặt để ở chỗ nào?
Trước lời ngoài câu chẳng
biết chỗ,
Càng khiến đất bằng thêm
lồi lõm.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "NHẤT THIẾT BẤT
LƯU, VÔ KHẢ KÝ ỨC", người nghĩa giải cho rằng : Chỗ tâm
hành diệt là "tất cả chẳng lưu", đường ngôn ngữ dứt
là "không thể ghi nhớ"; Ngoài không có pháp để bỏ là tất
cả chẳng lưu, trong không có tâm để giữ là không thể ghi
nhớ. "Liễu liễu kiến, không một vật, chẳng phải người,
chẳng phải Phật, hằng sa thế giới như bọt biển, tất
cả thánh hiền như điện chớp" cũng là tất cả chẳng lưu;
"Đốt hương tỉnh tọa ở Nam đài, suốt ngày tỉnh lặng
muôn niệm quên, chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng, chỉ
vì chẳng việc để suy lường" cũng là không thể ghi nhớ.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Vậy, dẫn chứng cũng được
tương tự, dẫu cho ông đem hết ngôn giáo của Phật Tổ dẫn
chứng đến cái thúng đựng nước không chảy, chỉ là càng
ghi nhớ thêm nhiều mà thôi. Muốn tất cả chẳng giữ, há
có thể được ư?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tất cả chẳng giữ, càng sanh
kiến (giải),
Trọn không ghi nhớ, vẫn còn
tri.
Nếu chẳng đích thân về quê
nhà,
Bệnh đói, bánh vẽ làm sao
trị!
58. HƯ MINH TỰ
CHIẾU, BẤT LAO TÂM LỰC
DỊCH
Rổng sáng tự chiếu soi, chẳng
lao nhọc tâm lực.
LỜI KHAI THỊ
Đạo cần mỗi ngày một bớt,
học cần mỗi ngày một thêm. Bớt đến kiến chấp tiêu mất,
thêm đến đầy bụng tức ngực, bỗng nhiên thêm bớt thảy
đều quên, tay không về chùa ngồi hướng vách, trong thành
Trì Dương Vương-lão-sư, lạnh lẽo khiến người tưởng nhớ
mãi. Đừng tưởng nhớ, rổng sáng tự chiếu soi, chẳng phải
do tâm lực.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói như thế, người
nghĩa giải cho rằng : Trong sạch đã đầy tròn, chẳng dung
nạp vật khác gọi là HƯ, hạt châu tự sáng tỏ, ánh trăng
tự chiếu soi gọi là MINH. Đã hư mà minh, vật đến liền
hiện, là công dụng của tự chiếu, chẳng cho lộn lời nói.
Ở đây, nếu thêm một mảy may tâm lực, thì chẳng thể cho
là hư minh tự chiếu rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Dẫn dụ rất là đúng lý,
vậy ông thấy hư không phải là chẳng tướng mạo chăng?
Xưa nay chưa từng nghe hư không tự nói : "Ta chẳng tướng
mạo". Nếu hư không có thể nói được thì chẳng thể gọi
là hư không, giả sử Tổ Sư đã biết có thí dụ này, thì
cái lỗi lỡ lời cũng khó tránh khỏi vậy.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Con dấu vàng ròng tâm ấn tâm,
Cần phải chư Tổ truyền thọ
nhau.
Lén lút lượm được cũng
vô dụng,
Đâu thể bắt chước nói diệu
huyền!
59. PHI TƯ LƯỢNG
XỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC
DỊCH
Chỗ lìa suy nghĩ, tình thức
khó lường.
LỜI KHAI THỊ
Bột trắng trong tuyết dễ
phân ra, thức tức duy tâm; Mực đen trong than khó biện biệt,
duy tâm tức thức. Thức chẳng phải tâm, tâm chẳng phải
thức. Dưới ánh mặt trời xem trắng đen, trước đài gương
sáng hiện xấu đẹp. Lời nói thế này, giống như lời giảng
Duy Thức Luận của Pháp sư, trước mặt nạp tăng, làm sao
hiển lộ tin tức thiệt?
Chẳng phải tâm, chẳng phải
thức, ban đêm chó sủa thôn hoa, mùa xuân oanh hót bờ liễu.
Cá kình hút cạn sóng đáy biển, con rồng chạy vào vô-sanh-quốc,
khiến Đại Phạm Vương giựt mình thức dậy, thẳng lên đỉnh
trời Sắc Cứu Cánh, tát cho hư không một bạt tai, rải xuống
long châu trăm ngàn hột, tia sáng lấp lánh rọi áo đẹp.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "PHI TƯ LƯỢNG
XỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC", người nghĩa giải cho rằng : Thức
là thức của nhà tâm, tâm là tâm của nhà thức, hai thứ
này như nước với sữa rất khó phân biệt. Phải biết, thức
là nước, tâm là sữa trong nước, nên giáo môn nói : "Vua
ngỗng chọn sữa, đâu đồng loài vịt!". Trong nước đều
có sữa, chỉ có vua ngỗng mới biết phân biệt, ngoài ra các
thứ thủy tộc đều chẳng biết. Việc này dụ cho trong tất
cả thức đều có chơn tâm, chỉ có Phật Tổ mới rõ.
Cái giác chiếu soi của linh
tri gọi là tâm, những suy tư, ghi, nhớ, thủ, xả, phân biệt
v.v... gọi là thức. Thức có 8 thứ : Lục căn mỗi căn một
thức, thứ 7 gọi Mạt Na, thứ 8 gọi A Lại Da cũng gọi là
Như Lai Tạng, bảy thức trước là nhánh lá, thức thứ 8 là
căn bản. Trong Kinh nói : "Lúc đầu thai thì đến trước, lúc
chết thì đi sau, ngộ là Như Lai Tạng, mê là A Lại Da". Thức
này nơi mê thì gìn giữ tất cả nghiệp thiện ác vô ký,
xả thân thọ thân từ vô lượng kiếp; nơi ngộ thì giữ
gìn tất cả hạt giống Bồ Đề, giải thoát, trí huệ từ
lúc vô thỉ. Thức này từ mê vào ngộ, chuyển thành Đại
Viên Cảnh Trí, đổi tên mà chẳng đổi thể. Hiện nay ở
trong tứ đại, ngũ uẩn, các pháp thánh phàm, ghi nhớ rõ ràng,
tác dụng phân biệt, cho đến kiến văn giác tri, tam giới
rộn ràng, vạn pháp thăng trầm, mỗi niệm khởi diệt, đều
nương nơi thức này mà sanh. Cho nên nói "Vạn pháp duy thức".
Khuê Phong nói : "Pháp sanh vốn không, tất cả duy thức".
Học giả ngày nay, chẳng thể
đem mạng căn một dao cắt đứt, đi khắp tòng lâm, chỉ biết
đem cái thông minh của mình dùng để dẫn khởi tình thức,
ôm những huyền giải ghi nhớ trong lòng, gặp duyên mống khởi,
chẳng biết huyền giải này là thuộc về "tình thức y-thông",
lại chấp cho là khai ngộ. Hoặc lầm nhận cái cảm giác linh
động rõ ràng trước mắt này, biện luận thao thao cho là
tự kỷ. Giống như Kinh Lăng Nghiêm nói : "Bỏ trăm ngàn biển
lớn, chỉ nhận một bọt cho là nước cả biển". Kinh Viên
Giác nói : "Đều là tập khí vọng tưởng phan duyên lục trần,
chẳng phải tâm thể chơn thật". Hòa Thượng Trường Sa nói
: "Những người học đạo chẳng biết chơn, chỉ vì xưa nay
nhận thức-thần", Vĩnh Gia nói :
"Tổn pháp tài, diệt công đức,
tất cả đều do tâm ý thức" v.v... Chư Phật chư Tổ đã
có chỉ bày rõ ràng, mà trong mạt pháp, bệnh này ngày càng
nhiều thêm! Nhưng kẻ mắc bệnh này là do lập chí học đạo
chẳng chơn chánh mà ra, nếu là quyết chí muốn rời khỏi
biển sanh tử thì không chịu dấu mình trong tình thức. Chỉ
do ban sơ một niệm muốn hiểu Thiền, hiểu Đạo, hiểu Phật,
hiểu Pháp mới thành bệnh này.
Thức này như núi Thiết vi
rộng lớn, bao vây họ từ vô thỉ, cũng như thiên binh vạn
mã ngày đêm ở trước cửa lục căn, rình sơ hở của họ.
Nếu không đủ chí quyết định liễu sanh tử, thì đi đâu
cũng phải vào đó.
Tổ Sư làm bài TÍN TÂM MINH
này, là mở rộng cửa Thiền cho kẻ hậu
học thoát bỏ tình thức, chỉ
tin tự tâm, cất bước liền vào. Nếu
tình thức của học giả còn
một mảy may chưa sạch, đọc bài MINH này
trở thành thuốc độc. Sự
lợi hại như thế, nên 2 câu đầu nói "CHÍ
ĐẠO VÔ NAN, DUY HIỀM GIẢN
TRẠCH". Chỉ 2 câu này, đem tâm với
thức phân giải rõ ràng. Tại
sao? Nói "CHÍ ĐẠO VÔ NAN" tức là chỉ
chơn tâm; "DUY HIỀM GIẢN TRẠCH"
tức là phá tình thức, kẻ tình
thức chưa quên, thấy người
nói lời này, bèn nói : "Tôi chỉ chẳng
lựa chọn". Đâu biết chỉ
cái "chẳng lựa chọn" này đã là hiểu theo
tình thức rồi, huống là kẻ
mỗi mỗi chấp có, gặp cảnh sanh tình ư
!
Nên ý bài MINH này từ đầu
đến cuối, nói đi nói lại, chẳng rời bản tâm, chẳng qua
vì giúp người học biện rõ tâm với thức mà thôi. Cho nên
nói "PHI TƯ LƯỢNG XỨ, THỨC TÌNH NAN TRẮC".
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Theo lời nói "DUY HIỀM GIẢN
TRẠCH", nay lại ở trong pháp một tâm, chỉ ra tình và thức,
ấy là lựa chọn hay chẳng lựa chọn? Nhưng tình và thức,
với một tâm quả là khác hay là đồng ư? Người chơn thật
học đạo, ở đây nếu chẳng thể xác định, mà muốn thấy
ý chỉ TÍN TÂM MINH của Tổ Sư, chẳng phải còn xa xôi ư!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Chỗ lìa suy nghĩ rất khó lường,
Môn đồ học Phật đều nên
rõ.
Ngay đó chẳng biết thiếu
vật gì?
Thông minh lanh lợi lại bị
lừa.
60. CHƠN NHƯ PHÁP
GIỚI, VÔ THA VÔ TỰ
DỊCH
Chơn như Pháp Giới, chẳng
người chẳng mình.
LỜI KHAI THỊ
Sư Khoáng không lỗ tai, chí
thần (tự tánh) không bản thể, Nguồn Linh không có đáy.
Đạt Ma truyền tủy đâu thể được! Xưa kia ở chung chẳng
biết tên, hôm nay gặp nhau chẳng phải ngươi. Bóng trăng đẹp
mà xuống nước chẳng chìm, gió lạnh lẽo mà sáu cửa tự
mở. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, dây dưa mục leo quấn
trước kiếp-không; "Gió chẳng động, phướn chẳng động",
Huệ Năng đắc chí nơi phòng giả gạo.
Linh Chiếu rõ ràng ta chẳng
biết,
Mây trăng khe núi tự quen nhau.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "CHƠN NHƯ PHÁP
GIỚI, VÔ THA VÔ TỰ", người nghĩa giải cho rằng : CHƠN NHƯ
PHÁP GIỚI là tổng danh của một tâm. Ngoài tâm chẳng pháp
thì đâu có cái tên gọi TỰ THA? Không những tự tha chẳng
lập, cho đến núi sông, đất đai, hữu tình vô tình, đều
chẳng thể đắc lại thành có. Dù nói chẳng thể đắc mà
có, cũng chẳng ngại an lập vật tượng tự tha. Tại sao?
Chơn như pháp giới dụ như vàng, vật tượng tự tha dụ như
bông tai, cà rá, dây chuyền...Phải biết vàng là thật thể,
các đồ trang sức là quyền danh (tên gọi tạm). THẬT chiều
theo QUYỀN thì vật tượng tự tha chẳng ngại an lập, dung
quyền về thật thì chỉ thấy chí thể của Nhất Chơn Pháp
Giới. Vậy, giả danh của các thứ trang sức chẳng cần trừ
mà tự mất rồi. Kẻ mê muội chẳng thông đạt ý chỉ viên
dung của Tổ Sư, cho là đoạn diệt, đọa nơi rỗng không,
lập cái thuyết "VÔ THA VÔ TỰ", ở đây cần phải biện bạch
cho rõ.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Biện thì cứ biện, nhưng trong
Chơn Như Pháp Giới còn dung nạp được lời biện bạch này
chăng?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Trong chẳng tự kỷ, ngoài chẳng
tha (người khác),
Cả gan nuốt trọn trái bí
kia.
Thẳng tay tặng người, người
chẳng nhận,
Rải cát quăng bùn vẫn y xưa.
61. YẾU CẤP
TƯƠNG ƯNG, DUY NGÔN BẤT NHỊ
DỊCH
Gấp muốn tương ưng, chỉ
nói bất nhị.
LỜI KHAI THỊ
Biển dụ cho tánh, đất dụ
cho tâm, chứa đầy mà chẳng tràn, hứng nặng mà chẳng sụp,
dung nạp hư không chẳng ngằn mé, xuyên thấu cổ kim chẳng
biên cương. Trước nói "bất lạc", sau nói "bất muội", hồ
ly tinh đâu phải hai con. Hôm qua nói "định", hôm nay nói "chẳng
định", cục cứt khô nuốt trọn vào bụng. Biện tài của
Duy Ma Cật khiến hàng Bồ Tát bịt miệng; lưỡi bén như kiếm
của Văn Thù đã làm thầy cho bảy Phật. Tông ta vốn chẳng
dây dưa này, chí lý đâu có ghi bia đá.
Tiếng sóng ngàn sông chìm biển
rộng,
Muôn núi hùng vĩ kém đỉnh
cao.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "YẾU CẤP TƯƠNG
ƯNG, DUY NGÔN BẤT NHỊ", người nghĩa giải cho rằng : Tổ
Sư phí sức phân biệt, trước nói "Chỉ chê lựa chọn", kế
nói "một cũng đừng giữ", "muôn Pháp cùng quán", "muôn Pháp
nhất như" v.v... đều là lý của 2 chữ "Chỉ nói". Nhưng chư
Phật chúng sanh, bản thể bất nhị, nói "Thành Phật" đã
là lời thừa, vậy nói : "MUỐN GẤP TƯƠNG ƯNG" dường như
thành 2 đoạn rồi. Nếu quả thật có cái lý tương ưng và
chẳng tương ưng, thì rõ ràng là nhị, đối với việc này
chưa thể không nghi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Chỉ e cái nghi này chẳng chơn
thật, chẳng vững chắc. Nếu Chơn thật vững chắc, thì cái
nghi này sẽ có ngày tự bùng nổ. Nghi này nếu vỡ, thì NHỊ
với BẤT NHỊ của tương ưng hay chẳng tương ưng đã thấu
rõ trước cơ xảo, lãnh hội ngoài ngôn ngữ, mới biết ơn
lớn của Tổ Sư khó đền đáp.
Xưa Ngài Duy Ma Cật bảo chúng
Bồ Tát nói Pháp môn Bất Nhị, mỗi mỗi nói xong, lại bị
chúng Bồ Tát hỏi ngược lại thì im lặng chẳng đáp. Lúc
ấy Văn Thù liền tán thán rằng "Chơn nhập Pháp môn Bất
Nhị". Vậy lời tán thán của Văn Thù sanh khởi từ chỗ nào?
Nếu cho im lặng là pháp môn Bất Nhị, thì người bệnh câm
và người gỗ máy cũng đều được nhập pháp môn Bất Nhị
rồi! Nếu im lặng có thể gọi là pháp môn Bất Nhị, thì
ngữ ngôn cũng có thể gọi là pháp môn Bất Nhị cho đến
ca hát cười giỡn đều gọi là Bất Nhị ư? Tại sao chỉ
khen một mình Duy Ma Cật vậy? Ở đây cần phải thấu rõ
ý chỉ mũi kim đụng nhau đúng khớp của 2 vị đại sĩ Văn
Thù và Duy Ma Cật, thì lời nói TƯƠNG ƯNG hay CHẲNG TƯƠNG
ƯNG trong một tiếng cười đã tẩy sạch rồi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Cửa Thiền Tổ Sư tuyệt chi
ly,
Đá lửa điện chớp vẫn chậm
trì.
Muốn gấp tương ưng nói BẤT
NHỊ,
Bà lão nhai cơm, mớm tiểu
nhi.
|