x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
9. MẠC TRỤC
HỮU DUYÊN, VẬT TRỤ KHÔNG NHẪN
DỊCH
Đừng theo nơi có, chớ trụ
nơi không.
LỜI KHAI THỊ
Vạn vật lăng xăng, con người
ngu độn, lìa tướng lìa danh, có ai không hiểu. Vì sao Đạt
Ma phân da phân tủy, Lâm Tế lập chủ lập tân (khách), làm
cho con cháu lăn lộn tìm. (Sơ Tổ Đạt Ma khám xét môn đồ,
có kẻ được da, có kẻ được thịt, có kẻ được xương,
cuối cùng Huệ Khả được tủy, kế làm Nhị tổ).
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "MẠC TRỤC HỮU
DUYÊN, VẬT TRỤ KHÔNG NHẪN", Người nghĩa giải cho rằng :
Cả 2 đều hư huyễn, khởi tâm chấp trước thì thủ xả
tranh nhau, một niệm chẳng sanh, thường ở trung đạo, tức
là đạo nhân giải thoát.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Sai lầm! Đợi ngươi biết
là giải thoát, đã lọt vào ngoan không rồi. Nếu là bậc
ngộ tâm chân thật thì hữu duyên và không nhẫn há ở bên
ngoài giải thoát ư!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Đừng theo nơi có, còn là dễ,
Chớ trụ nơi không, mới thực
khó.
Hai đầu khó dễ đều chấm
dứt,
Tổ đình y xưa chẳng dính
dáng.
10. NHẤT CHỦNG
BÌNH HOÀI, DÂN NHIÊN TỰ TẬN
DỊCH
Trọn một bình đẳng, tuyệt
nhiên tự sạch.
LỜI KHAI THỊ
Đạo tràng chẳng động, pháp
vốn vô sanh. Trăng sáng thấu song cửa, gió mát đầy bình
phong, chỗ có Phật chẳng được trụ, dùng sắt gói tim đèn.
Chỗ không Phật chạy mau qua, bông đẹp trải gấm lụa. Ngoài
ba ngàn dặm tìm bông hái, mười phương hư không đều tiêu
mất. Dễ thương lượng, khó định chuẩn, trâu đất đáy
biển ăn roi sắt, bên đầu trăm cỏ gió lạnh lùng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "NHẤT CHỦNG BÌNH
HOÀI, DÂN NHIÊN TỰ TẬN", Người nghĩa giải cho rằng : Tình
chấp thủ xả đã sạch, tri kiến thánh phàm không nơi nương
tựa, tự nhiên tất cả chỗ đều bình thường, tất cả
chỗ tịch diệt.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Ban ngày không ngủ, đừng có
nói mớ. Như nay mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, gọi cái gì
bình thường hay không bình thường?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tuyệt nhiên sạch hết chẳng
ngằn mé,
Bên đầu trăm cỏ mở chánh
nhãn.
Sanh tử Niết bàn đều bóp
nát,
Chẳng biết bình thường đặt
nơi nào.
11. CHÆ ĐỘNG
QUY CHÆ, CHÆ CÁNH DI ĐỘNG
DỊCH
Ngăn động trở về tịnh,
tịnh ấy càng thêm động.
LỜI KHAI THỊ
Nói quanh lao nhọc danh tướng,
nói thẳng chẳng có dài dòng. Nói quanh tạm gác một bên,
thế nào là nói thẳng? Trương Tam, ăn gậy sắt, Lý Tứ chịu
đớn đau; người sống vào quan tài, người chết đi đưa
đám. Quan Âm mất hết thần thông, lại bị con nít chọc ghẹo.
Nói thẳng tạm gác một bên, nói quanh lại là thế nào?
Hoa giác ngộ phải trồng nơi
tự tánh,
Hạt giống Phật nên gieo trên
tâm địa.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "CHÆ ĐỘNG QUY CHÆ,
CHÆ CÁNH DI ĐỘNG". Người nghĩa giải cho rằng : Chân tâm
trạm nhiên luôn luôn bất động, xưa nay lưu chuyển đều
do vọng kiến, vậy động đã là vọng, tịnh cũng là vọng,
dùng vọng để ngăn vọng, giống như ôm củi chữa lửa, chỉ
thêm cháy mạnh. Lấy lời Pháp Sư Tăng Triệu dẫn chứng rằng
: "Muốn tìm chỗ bất động, đâu phải buông động để cầu
tịnh, ắt phải cầu tịnh ở nơi động. Vì cầu tịnh ở
nơi động, dù động mà thường tịnh; chẳng buông động
để cầu tịnh, dù tịnh mà chẳng lìa động". Thế thì, động
chẳng tướng động, tịnh chẳng tướng tịnh, như trong Kinh
nói "Hai tướng động tịnh rõ ràng không sanh", bởi vì rõ
biết động tịnh đều là cảnh vọng, các vọng đã tiêu
thì hai tướng đâu còn!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Thôi thôi! Động là núi bạc,
tịnh là vách sắt. Nếu chưa từng đập nát, mà muốn hai
tướng kia không sanh thì còn cách xa quá.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Ngọn lửa đâu cho ruồi muỗi
đậu,
Lưỡi kiếm chẳng cho thân
trần đụng.
Nhà kín Đạt Ma không cửa
nẻo,
Nắm tay lôi kéo chẳng ai vào.
12. DUY TRỆ LƯỠNG
BIÊN, NINH TRI NHẤT CHỦNG
DỊCH
Hễ kẹt hai bên, đâu biết
vốn một.
LỜI KHAI THỊ
Nhìn phải nhìn trái, Đông
nổi Tây lặn, ló ra đầu búa không lỗ, đập lũng đáy thùng
sơn đen. Chân nhân Vô Địa Vị, bạt tai Núi Tu Di một cái,
khiến cho Bồ Tát Hư Không Tạng đứng giữa ngã tư đường
chấp tay nói rằng : "Cúi xin trân trọng". Tại sao có những
việc trên như thế?
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "DUY TRỆ LƯỠNG
BIÊN, NINH TRI NHẤT CHỦNG", Người nghĩa giải cho rằng : LƯỠNG
BIÊN là 2 tướng động tịnh, NHẤT CHỦNG là toàn thể không
khác. Đây là lời giải thích 2 câu trên, phải biết động
tịnh nhị biên, vọng thì cùng vọng, chân thì cùng chân, đâu
có hai thứ.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Im đi, im đi! Đừng đem kiến
giải vô dụng đã học được, để chôn vùi chân tâm của
Tổ Sư.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Thị nhất chủng hay phi nhất
chủng,
Thị phi hết chấp có ai biết.
Chớ đem đá rêu xanh trong tuyết,
Cho là cò trắng đứng dưới
sông.
13. NHẤT CHỦNG
BẤT THÔNG, LƯỠNG XỨ THẤT CÔNG
DỊCH
Vốn một chẳng thông, thì
đặt ra hai chỗ là uổng công.
LỜI KHAI THỊ
Nhận nai là ngựa, gọi lu là
chuông, xưa nay đem sai chiều theo sai, chẳng khác đem hư không
lấp hư không, ngồi rách năm, ba cái bồ đoàn, vỗ tay cười
to; đi gãy bảy, tám cây tích trượng, mặt mày hớn hở, quét
sạch bệnh chấp Phật Tổ, diệt mất Thiếu Lâm Tông (Thiền
Tông), lò rèn lâu năm lửa vẫn hồng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "NHẤT CHỦNG BẤT
THÔNG, LƯỠNG XỨ THẤT CÔNG", một số thiền giả bày đặt
rằng : Hai câu này là lời kết trước dẫn sau, nói KẾT TRƯỚC
là hiển bày chơn lý vốn một; Nói DẪN SAU là trách cái vọng
của có và không vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nếu là nạp tăng chơn thật,
dù nói một nói hai, câu nào cũng quy về tự tông (bản thể),
lời nào cũng là ứng dụng. Nếu chẳng như thế, thì nói
một đã lọt vào hang ổ rồi, huống là hai ư!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Nói một xưa nay không chỗ
để,
Nói hai đâu có chỗ lập công?
Chỉ vì Bà mẹ dặn quá kỹ,
Liên lụy vợ tôi chấp thấy
nghe.
14. KHIỂN HỮU
MỘT HỮU, TÙNG KHÔNG BỘI KHÔNG
DỊCH
Trừ bỏ Có thì kẹt nơi Có,
đuổi theo KHÔNG lại trái với KHÔNG.
LỜI KHAI THỊ
Đầu chánh đuôi chánh, tâm
không mắt không, gặp nhau trong đường hẹp, nói bậy cũng
trúng. Cây bách của Triệu Châu, cắt đứt một dòng suối
thế gian. Cái bánh sắt có nhân của Đông Sơn, bóng nước
bầu trời hiện cây tùng. Voi lớn không đi đường con thỏ,
sư tử đâu chịu giẫm dấu chồn.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "KHIỂN HỮU MỘT
HỮU, TÙNG KHÔNG BỘI KHÔNG". Những người đuổi theo lời
nói giải rằng CÓ là vọng có, vì trừ nó mà bị kẹt;
KHÔNG vốn tự không, do muốn
đuổi theo nên trái. CÓ là cái có của nhà không; KHÔNG là
cái không của nhà có, KHÔNG nhờ có mới hiển, CÓ nhờ không
mà bày; vì hiển nên toàn không là có, vì bày nên toàn có
là không, dung nhiếp với nhau mà chẳng sai, tương đối lẫn
nhau mà chẳng khác. Do đó được biết, trừ nó hay theo nó
đều là vọng.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Sư tử cắn người, đâu chịu
đuổi theo cục xương, y văn giải nghĩa, còn không bằng con
chó đuổi theo cục xương nữa, mà còn muốn nó rống lên
chụp người ném cục xương ấy, thì đâu có thể được!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Chỉ vì lá bùa dán quá cao,
Giữ cửa vẫn bị quỷ thần
vào.
Đâu bằng ở dưới thềm nhà
lá,
Suối, mây, trăng, núi làm bạn
nhau.
15. ĐA NGÔN ĐA
LỰ, CHUYỂN BẤT TƯƠNG ƯNG
DỊCH
Nói nhiều lo nhiều, càng chẳng
tương ưng.
LỜI KHAI THỊ
Như nước vào nước, như gương
soi gương, tẩy được pháp trần lại kết thành kiến bệnh,
làm cho tam thế chư Phật không nhà để về, lịch đại tổ
sư chẳng có đạo để chứng. Vì thương xót quan tuần mù
mắt phải xem số mạng cho KHÔNG VƯƠNG, đêm khuya lật bàn
quẻ ra xem, hư minh lạnh lẽo tự soi nhau. Cho nên nói "ĐA NGÔN
ĐA LỰ, CHUYỂN BẤT TƯƠNG ƯNG".
LỜI NGHĨA GIẢI
Người nghĩa giải cho rằng
: Nói nhiều cách đạo càng xa. Lại nói "diệu tâm rỗng nhiên
chiếu soi, lấy tịch lặng của bậc Thánh làm tông. Còn dẫn
chứng Tổ Đạt Ma dạy "Ngoài tuyệt các duyên, trong tâm không
nghĩ tưởng". Ngoài tuyệt các duyên thì quên lời nói, trong
không nghĩ tưởng thì hết niệm lo.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Ngươi dẫn chứng như thế
rồi, vậy có tương ưng với tự tánh hay chưa? Nếu chưa,
thì nói chi ngôn ngữ này nọ!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Do lời hiển đạo, đạo quên
lời,
Quên đến không lời cũng vọng
truyền.
Thị phi thoát ra ngoài lời
nói,
Hư không chẳng miệng biết
nói Thiền.
16. TUYỆT NGÔN
TUYỆT LỰ, VÔ XỨ BẤT THÔNG
DỊCH
Bặt nói bặt lo, chỗ nào cũng
thông.
LỜI KHAI THỊ
Đạo Ngô múa hốt (cây hốt
của quan triều đình), Thạch Củng giương cung, Tây Hà sư
tử, Trường Sa mãnh hổ, chẳng những bấy giờ tiếng tăm
lừng lẫy, cho tới ngày nay gia phong vẫn còn lưu truyền, đến
dưới cửa Tổ Sư phải khiến dấu chuột diệt mất. Tại
sao như thế? Há chẳng thấy nói "Dùng nia đong gạo khác với
cái lít, bàn ủi nấu trà không giống cái ấm". Cho nên nói
"TUYỆT NGÔN TUYỆT LỰ, VÔ XỨ BẤT THÔNG".
LỜI NGHĨA GIẢI
Hoặc có người y văn giải
nghĩa rằng : Bặt nói thì đường ngôn ngữ dứt, bặt lo thì
chỗ tâm hành diệt; đường ngôn ngữ dứt thì tịch mà chiếu,
chỗ tâm hành diệt thì chiếu mà tịch. Đến đây, Như Lai
Thiền và Tổ Sư Thiền có thể xỏ chung một xâu, cũng có
cổ nhân bảo họ thôi đi nghỉ đi, khoé miệng lên meo, trên
lưỡi mọc cỏ v.v... đều không ngoài lý này.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Lãnh hội như thế, giống như
để nước đá trên ngọn lửa hồng, thật là không biết
mắc cở. Nếu quả như lời nói ấy, thì đâu cần Tổ Sư
từ Tây Trúc sang!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Bặt nói bặt lo đồng người
gỗ,
"Khi nào thành Phật", Vĩnh Gia
chê.
Chưa ngộ trước lời thông
huyền chỉ,
Đem một mảy lông ngăn thiết
vi.
17. QUY CĂN ĐẮC
CHÆ, TÙY CHIẾU THẤT TÔNG
DỊCH
Trở về cội gốc thì được
ý chỉ, đuổi theo chiếu soi lại mất bản tông.
LỜI KHAI THỊ
Như thế, như thế, cho Tây
làm Đông; chẳng như thế, chẳng như thế, nhận có là không.
Chẳng như thế ở nơi như thế, giống như dùng lưới bắt
gió, như thế, ở nơi chẳng như thế, như dùng giấy ướt
để nhốt cọp. Tại sao? Há chẳng nghe nói "QUY CĂN ĐẮC CHÆ,
TÙY CHIẾU THẤT TÔNG" ư!
LỜI NGHĨA GIẢI
Một số người khéo suy lường
rằng : "Bặt nói bặt lo" là trở về cội, "nơi nào cũng thông"
là đắc tông chỉ. Nếu ngươi lãnh hội theo nghĩa "về cội
đắc chỉ" đó, thì lại đuổi theo chiếu soi làm lạc mất
tông chỉ rồi. Nhưng CỘI vốn không chỗ về, CHÆ cũng chẳng
thể đắc, chẳng rõ nghĩa này, tự sanh vọng chấp, nói là
TUỲ CHIẾU, nếu còn dấu tích chữ CHIẾU, thì tâm tông của
chư Phật chư Tổ đã lạc mất quá lâu rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Quả có lời nói này ư? Nếu
thật như thế, thì cũng như kêu những Phật Tổ từ xưa đên
đây ăn gậy sắt của Diêm La Vương. Tại sao? Vì họ QUY CĂN
ĐẮC CHÆ vậy!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
TÙY CHIẾU, QUY CĂN đồng một
việc
Chẳng cần đặc biệt hiển
gia phong.
Tâm trộm chưa chết trước
cơ xảo,
"ĐẮC CHÆ" đâu khác sự "THẤT
TÔNG".
18. TU DU PHẢN
CHIẾU, THẮNG KHƯỚC TIỀN KHÔNG
DỊCH
Phản chiếu chốc lát, hơn
cả KHÔNG kia.
LỜI KHAI THỊ
Thấy đến, hành đến, Tông
thông thuyết thông, hiển lộ con mắt trời người, mổ ra
tấm lòng Phật Tổ. Ngược với vật, đuổi theo vật, giống
như khác chẳng phải khác, giết người cứu người, nói đồng
chẳng đồng, đều cho đè ngang xuống một lượt, nửa đêm
cửa biển mặt trời hồng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "TU DU PHẢN CHIẾU,
THẮNG KHƯỚC TIỀN KHÔNG", hạng người gượng nói đạo lý
rằng : Đem sáng, tối, sắc, không, dẫn nghĩa quy về tự kỷ
gọi là PHẢN CHIẾU. Phải biết không chẳng tự không bởi
tâm nên không; có chẳng tự có, bởi tâm nên có, chúng sanh
xa trái tự tâm, vọng thấy Không và Có, mà muốn theo nó hay
bỏ nó, đều gọi là điên đảo.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Lời nói đoán sai. Dưới cửa
Thiền Tông, tìm tâm trọn chẳng thể được, ai là người
điên đảo?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Vốn chẳng phải chiếu đâu
cần chiếu,
Nói chi chốc lát với lâu dài.
Hễ được kiến tánh siêu
danh tướng,
Hai việc lâu mau nghĩa đều
sai.
19. TIỀN KHÔNG
CHUYỂN BIẾN, GIAI DO VỌNG KIẾN
DỊCH
Không kia chuyển biến, đều
do vọng kiến.
LỜI KHAI THỊ
Lư hương chùa cổ, lụa trắng
một sợi, ngay đó siêu việt sanh tử, đều là rơi vào phương
tiện. Xưa nay chẳng tin tâm tự mê, lại nói Phật pháp không
linh nghiệm. Dù có linh nghiệm, ngay đó liền thành Phật, thì
vào địa ngục mau như tên bắn.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "TIỀN KHÔNG CHUYỂN
BIẾN, GIAI DO VỌNG KIẾN", người nghĩa giải cho rằng : Có
là vọng, Không cũng là vọng. Không và Có theo duyên thay đổi
chẳng nhất định, muốn được lìa vọng, phải bài trừ
cả hai.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Thôi thôi! Trừ thì mặc tình
cho y trừ, nhưng chẳng biết cái vọng sở trừ và cái tâm
năng trừ đều chẳng lìa vọng. Nếu chẳng thể luôn cả
cái "trừ" đều trừ sạch, muốn thoát khỏi cảnh duyên vọng,
khó mong có ngày. Vậy có phương tiện nào để trừ luôn cái
"Trừ"?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
KHÔNG đâu có biến, biến phi
KHÔNG,
Trong mắt đừng có chứa núi
sông.
Ba Tư đáy nước thổi đá
lửa,
Mặt trời bay lên cửa biển
đông.
20. BẤT DỤNG
CẦU CHƠN DUY TU TỨC KIẾN
DỊCH
Chẳng cần cầu chơn, chỉ
cần dứt kiến (tri kiến)
LỜI KHAI THỊ
Dựng đứng xương sống như
sắt, cầm ngang cây kiếm dài như trời, trong lúc động tịnh
nhàn rộn, tất cả nhồi thành một khối. Đã tinh chuyên,
lại dũng mãnh, đối với sự thành Phật làm Tổ, chẳng cách
một hạt bụi, đụng nhằm Tam Tổ nói nhỏ với Ngài rằng
"Khéo léo xem phương tiện, chẳng cần cầu chơn, chỉ cần
dứt kiến".
LỜI NGHĨA GIẢI
Người học giáo lý cho rằng
: Kiến chấp có 62 thứ, pháp số nêu ra đủ thứ, chẳng ra
ngoài 2 kiến : Đoạn và thường. Cầu chơn rơi vào đoạn
kiến, theo vọng rơi vào thường kiến. Kinh Lăng Nghiêm nói
"Nói vọng để hiển chơn, Vọng, Chơn là hai vọng, Phi chơn
phi chẳng chơn, nói chi kiến sở kiến". Hễ lìa được tất
cả kiến thì toàn thể tức chơn, chẳng cần cầu vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Phải thì cố nhiên là phải,
nhưng Tổ Sư nói "CHÆ CẦN DỨT KIẾN", vậy kiến làm sao dứt?
Nếu như có cái lý của dứt kiến, thì cái lý đó cũng trở
thành kiến rồi!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tác ý cầu chơn, chơn liền
ẩn,
Tận tình dứt kiến, kiến
càng sanh.
Ngay cửa dù chẳng trồng gai
gốc,
Nhưng đã không ai có lối đi.
|