x
|
cx
TÍN
TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Tác Giả:
Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
44. NHẤT THIẾT
NHỊ BIÊN, LƯƠNG DO CHÂM CHƯỚC
DỊCH
Tất cả nhị biên đối đãi
đều do đo lường suy toán.
LỜI KHAI THỊ
Mở miệng nói nhằm, cất bước
đạp phải, tất cả đều sẳn sàng, chẳng tin hãy hành cước.
Đợi y đi tới đường cùng, chẳng chỗ ở đậu, áo rách
giày lủng, khi ấy xỏ mũi kéo quày đầu (ngộ), mới tin xưa
nay uổng công tìm.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "NHẤT THIẾT NHỊ
BIÊN, LƯƠNG DO CHÂM CHƯỚC". Có người bày đặt chú giải
rằng : Vừa thấy có loạn liền thấy có tịch. Phải biết
loạn chẳng tự loạn, vì tịch nên loạn; tịch chẳng tự
tịch, vì loạn nên tịch, do đó các pháp lăng xăng, mới có
sự đối đãi nhau sanh khởi. Nói 2 chữ "CHÂM CHƯỚC" nghĩa
cũng giống như 2 chữ "GIẢN TRẠCH" ở đầu bài MINH, vì tình
thức "GIẢN TRẠCH" chưa tiêu, thì đối với nhị biên tịch
loạn v.v..., kết thành cái niệm "CHÂM CHƯỚC". Nếu chưa trừ
được niệm này thì tất cả chẳng được bất nhị vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Thế thì cái niệm "CHÂM CHƯỚC"
có phương tiện nào để trừ? Nếu chẳng biết phương tiện
gì, thì lời ông nói ở trên cũng là do CHÂM CHƯỚC sanh khởi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Nhị biên vốn chẳng cần châm
chước,
Một đạo bình đẳng cũng
vọng truyền.
Gặp việc chưa thoát ngoài
ngôn ngữ,
Kiến đồng Phật Tổ cũng
xót thương.
45. MỘNG HUYỄN
KHÔNG HOA, HÀ LAO BẢ TRÓC
DỊCH
Việc mộng huyễn như hoa đốm
trên không, đâu cần nắm bắt cho mệt nhọc!
LỜI KHAI THỊ
Mai rùa đen (vô minh), bụng
trống rổng, trái cân sắt (tự tánh), thật cứng chắc. Chỉ
có Mộc thượng tọa, chẳng bị người xuyên tạc, sáng cưỡi
trâu Thiểm Phủ, chiều cưỡi hạc Dương Châu.
Có khi ban ngày chạy về nhà,
Khi gõ hư không tự vấn đáp.
Khúc hát "Về Quê" tiếng chưa
dứt,
Mây bay chân trời lặn ngôi
sao.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "MỘNG HUYỄN KHÔNG
HOA, HÀ LAO BẢ TRÓC", người nghĩa giải dẫn chứng trong kinh
nói : "Tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn, bọt, bóng, như
sương lộ, điện chớp, nên tác quán như thế". Còn dẫn chứng
Ngài Vĩnh Gia nói : "Buông tứ đại, chớ nắm bắt, trong tánh
tịch diệt cứ ăn uống, các hạnh vô thường tất cả không,
tức là Như Lai Đại Viên Giác", bèn mặc tình phan duyên, tùy
ý tạo tác cho đến hủy phạm giới cấm, phá hoại luật
nghi, đều lấy 2 lời này để dẫn chứng.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nhưng chẳng biết ngay lúc buông
lung tình ý, quả thật thấy những cảnh sở duyên như mộng
huyễn không hoa hay không? Nếu thấy là không hoa thì chẳng
nên đeo đuổi. Nếu trong lòng còn giữ một mảy may phan duyên
đeo đuổi thì chẳng thể cho là mộng huyễn không hoa rồi.
Phải biết, thành Phật làm Tổ cũng là mộng huyễn không
hoa. Ngoài ra đâu còn cái gì chẳng phải mộng huyễn! Lại
càng nên biết, ngay cái thuyết "HÀ LAO BẢ TRÓC" đã là rơi
vào mộng huyễn rồi. Việc này nếu chẳng đích thân chứng
ngộ, mà chỉ muốn tùy theo ngữ ngôn lý giải, thì chẳng
phải ngu là gì?
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Thích Ca nửa đêm thấy ngôi
sao,
Cùng hiện bóng nghiệp trước
Gương Đài.
Làm thành một thứ mộng điên
đảo,
Chẳng biết ai là đắc tiện
nghi.
46. ĐẮC THẤT
THỊ PHI, NHẤT THỜI PHÓNG KHƯỚC
DỊCH
Đắc, thất, thị, phi, đồng
thời buông bỏ.
LỜI KHAI THỊ
Tuyết Phong ném banh gỗ, Phổ
Hóa rung chuông sắt, dù nói là đại cơ đại dụng, rốt cuộc
trở thành tạo tác, đâu bằng Vương Thái Phó ở trong quốc
độ vô sanh, cũng chẳng thiện, cũng chẳng ác, mặc tình ăn
no nằm dài ngủ, tùy ý tự tại an lạc, có người đến hỏi
Tổ Sư Thiền, bảo y cứ xem cây phướn vàng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói "ĐẮC THẤT THỊ
PHI, NHẤT THỜI PHÓNG KHƯỚC", người nghĩa giải cho rằng
: Trong Nhất Pháp giới chẳng đắc cũng chẳng thất, chẳng
thị cũng chẳng phi, chỉ vì vọng tình chợt khởi, dị kiến
liền sanh, ở nơi chẳng đắc thất bừng khởi đắc thất,
ở nơi chẳng thị phi nổi đủ thứ thị phi. Do đó, Tổ Sư
bảo y "đồng thời buông bỏ", đã là tự chạm dao bén làm
cho đứt tay, đất bằng dậy sóng rồi. Đã biết xưa nay vốn
không, thì buông bỏ cái gì? Nếu nói có cái lý "có thể buông
bỏ, thì đắc, thất, thị phi đặt để ở chỗ nào?
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Ủa! nói "có thể buông bỏ"
cũng đáng ăn gậy, nói "không thể buông bỏ" cũng đáng ăn
gậy. Tại sao? Vì ông chưa thoát khỏi được đắc thất thị
phi vậy.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Hai tay xòe ra chẳng một việc,
Thị phi đắc thất thảy đều
quăng.
Muốn đem cái này thoát sanh
tử,
Con rắn siết chặt đôi chân
ông.
47. NHÃN NHƯỢC
BẤT THÙY, CHƯ MỘNG TỰ TRỪ
DỊCH
Mắt nếu chẳng ngủ, chiêm
bao tự dứt.
LỜI KHAI THỊ
Quanh năm ngồi kiết già, suốt
ngày miệng như câm, hai mắt ngó trên vách, chẳng biết mong
muốn gì. Tham cứu tự kỷ, nửa nghi nửa tin, xem lời cổ
nhân, tợ có tợ không. Đến lúc năm cùng tháng tận, trở
thành leo cây bắt cá.
Đâu bằng quét sạch cả hư
không,
Trong lòng ló ra dạ Minh Châu.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "NHÃN NHƯỢC BẤT
THÙY, CHƯ MỘNG TỰ TRỪ", người nghĩa giải cho rằng : Hai
câu này là dụ trước hợp sau. Như người mở to đôi mắt,
rõ ràng tỉnh táo, thì hôn trầm tự trừ; đã chẳng hôn trầm
thì đâu có chiêm bao!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nếu làm thí dụ thì được.
Nếu chẳng làm thí dụ, thì Tổ Sư cũng đáng ăn gậy. Tại
sao? Nay mở mắt đâu từng chẳng phải là chiêm bao!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Kim Cang chánh nhãn chưa từng
ngủ,
Chẳng biết mộng lớn bao giờ
thức.
Gởi lời thiền khách cửa
Tổ Sư,
Chớ cho Hạc hót là Oanh ca.
48. TÂM NHƯỢC
BẤT DỊ, VẠN PHÁP NHẤT NHƯ
DỊCH
Nếu tâm chẳng cho là có khác,
thì muôn pháp chỉ là một "NHƯ".
LỜI KHAI THỊ
Chỗ hành của đạo nhân như
lửa tan băng, trước mặt của nạp tăng như băng dập lửa.
Ném bỏ hai thứ băng lửa, mặc cho thánh phàm cùng lối. Đạo
sĩ không tay vẽ bùa quỷ, Xà Lê mù mắt đọc kinh Phật. Lại
còn một chỗ đáng tin cậy : Tò vò nuốt cả Hồ Động Đình.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "TÂM NHƯỢC BẤT
DỊ, VẠN PHÁP NHẤT NHƯ", người nghĩa giải cho rằng : Vạn
pháp vốn như, do tâm mới thành khác. Ví như núi chẳng tự
cao, tâm cho là cao, nước chẳng tự sâu, tâm cho là sâu. Tâm
này cho là khác thì muôn ngàn sự vật đều thành khác. Cổ
và lưng vốn cùng một thân mà xem nó như 2 nước Sở và Việt,
anh em cùng giống nòi mà coi nhau như trời với đất. Vì sự
khác nên tình chí thân còn phải khác, huống là phàm với
thánh, người với vật. Muốn dung hợp thành một, chẳng sanh
yêu ghét này nọ, đâu có thể được!
Kinh nói : "Chưa đạt cảnh
duy tâm, khởi đủ thứ phân biệt", như bọn mù mò voi, như
thấy bóng cung trong nước nghi là rắn... Ở nơi chẳng đồng
dị bừng khởi đồng dị. Cần phải trị hết bệnh nhặm,
chẳng thấy hoa đốm trên không, dung pháp giới về tâm này,
như gương soi gương; Chuyển núi sông vào tự kỷ, tợ không
hợp không. Đến đây các duyên tịch lặng, tâm niệm im lìm,
nhị kiến chẳng sanh, nhất pháp ấn định, mới có thể gọi
là phù hợp ý Tổ, khế hội tâm Phật vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Lời này tạm gác qua một bên.
Nay trước mắt sáng, tối, thông, nghẽn, thành, trụ, hoại,
không, cảnh tượng lăng xăng, gọi cái gì là tâm bất dị?
Ngay đó chỉ bày không ra. Hoặc có người nói : "Mặc cho các
pháp hiển bày trước mắt, ta chỉ dùng cái lý "Bất dị"
để chiếu soi, tức là chẳng khác". Ôi, nếu nói như thế,
lại càng thêm nhiều khác biệt nữa!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Tâm chẳng khác biệt đồng
vạn pháp,
Nắm tay chỉ thể dọa trẻ
con.
Cứ theo hình vẽ đồ cho giống,
Lừa gạt người đời khi nào
thôi.
49. NHẤT NHƯ
THỂ HUYỀN, NGỘT NHĨ VONG DUYÊN
DỊCH
Một chữ "NHƯ" thể tánh huyền
diệu, cùng tột bình đẳng, bặt nhân duyên đối đãi.
LỜI KHAI THỊ
Thiền, thiền, thiền, lìa lý
giải, Thích Ca chưa được một nửa, Đạt Ma còn thiếu tám
ngàn. Lâm Tế hét tới mỏi miệng, Đức Sơn đánh tới phồng
tay, mỗi mỗi kiểm điểm từ đầu, vẫn cách trời đất
xa xôi. Tiến tới như vạch sóng tìm nước, thối lui như đào
đất tìm trời, chẳng tiến chẳng lui cầu tương ưng, cần
phải tham thêm ba mươi năm.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "NHẤT NHƯ THỂ
HUYỀN, NGỘT NHĨ VONG DUYÊN", người nghĩa giải cho rằng :
Thể tánh của chữ "NHƯ" huyền diệu lại thêm huyền diệu,
chẳng vì nhân duyên mà có, chẳng do tự nhiên mà thành. Lìa
tứ cú, tuyệt bách phi, Phật nhãn chẳng thể thấy, thánh
tâm cũng khó lường. Quăng đại thiên thế giới ra ngoài mười
phương, cuốn chặt pháp giới thành một mảy lông. Một không
thì tất cả không, chẳng cần mổ xẻ; một có thì tất cả
có, đâu cần đào tạo. Trần sa chẳng thể dụ số nhiều,
hào ly chẳng thể dụ số ít. Nói "Bặt nhân duyên, tuyệt
đối đãi", tức là thể tánh huyền diệu của một chữ NHƯ
vậy.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nói thì nói gần đúng, ngươi
nếu chứa lời nầy trong lòng, muốn tương ứng với thể
tánh huyền diệu của chữ NHƯ, chẳng khác gì ôm lửa trong
lòng mà cầu cho đừng cháy.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Nói NHƯ ngoài NHƯ đâu còn
NHƯ?
Núi khe trùng điệp ẩn nhà
xưa.
Mặt trời lên cao ngủ mới
thức,
Nhàn thấy mục đồng cưỡi
ngược lừa.
5O. VẠN PHÁP TỀ QUÁN, QUI
PHỤC TỰ NHIÊN
DỊCH
Muôn pháp cùng quán một lượt,
tất cả trở về tự nhiên.
LỜI KHAI THỊ
Phật pháp chẳng ở ngoài tâm,
thiền đạo đâu lìa trung đạo nhị biên, ngươi nếu khởi
tâm tìm cầu, lại xa thập vạn bát thiên. Có gì tam yếu tam
huyền, toàn thân chẳng hình bóng, ngay đó lìa ngữ ngôn.
Đạo nhân đâu cần cầu tương
ưng,
Xưa nay chưa từng chẳng hiện
tiền.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "VẠN PHÁP TỀ
QUÁN, QUI PHỤC TỰ NHIÊN", người nghĩa giải dẫn chứng giáo
môn nói : "Tùy duyên nên chơn như là vạn pháp, bất biến
nên vạn pháp là chơn như". Còn nói : "Ngoài tâm chẳng có
pháp để làm duyên với tâm vốn là tự tâm sanh, lại làm
tướng cho tâm". Lời này so với cái lý "VẠN PHÁP TỀ QUÁN"
của Tổ Sư, cũng chẳng cách xa vậy. Hoặc nói : "TỀ QUÁN"
cũng là cái bóng của "chẳng lựa chọn", nếu còn lựa chọn
thì chẳng thể TỀ QUÁN rồi.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Dẫn chứng thì chẳng phải
không đúng. Như mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ban đêm tối,
ban ngày sáng, rõ ràng chẳng thể lẫn lộn. Vậy thì có đạo
lý gì để nói TỀ QUÁN? Lìa khỏi lời này, xin cho một tin
tức tốt hơn thử xem!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Vạn Pháp làm sao khiến cho
bằng?
Đâu thể trở về lúc tự
nhiên.
Xưa nay tri âm rất khó gặp,
Bá Nha, Tử kỳ đi đâu tìm.
51. DẪN KỲ SỞ
DĨ, BẤT KHẢ PHƯƠNG TỶ
DỊCH
Bặt hết lý giải, chẳng thể
thí dụ.
LỜI KHAI THỊ
"Cái trong điện, cái ngoài
tường" của Triệu Châu "Đánh xe đánh bò" của Mã Tổ, "Giơ
nắm tay, giơ ngón tay" của Câu Chi, "Ném ba trái banh gỗ" của
Tuyết Phong. "Gởi ba tờ giấy trắng" của Huyền Sa. Nói tánh
nói tâm nơi Linh Sơn, Nói da nói tủy nơi Thiếu Thất. Tào
Động lập ngũ vị quân thần, Qui Ngưỡng lập cửa Thiền
Cha Con, "Đầy mắt núi xanh" của Đức Thiều (Quốc Sư), "Nước
hồ trước cửa" của Vĩnh Minh... thả đi thì sáng khắp bầu
trời, chặn lại thì gió bay muôn dặm, trước lời không ngưng
cơ xảo, tiếng nói đâu cho chõ mỏ. Hứ! Tất cả đều là
mở mắt đái dầm, đốt nhang dẫn quỷ, tại sao vậy?
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "DẪN KỲ SỞ DĨ,
BẤT KHẢ PHƯƠNG TỶ", người nghĩa giải cho rằng : Kinh Bát
Nhã dùng 100 dụ để dụ Bát Nhã, có kinh khác cũng dùng 100
dụ để dụ giải thoát; còn có người dùng 100 dụ để dụ
tâm Bồ Đề, ghi đủ trong kinh sách, đâu có cái lý "Chẳng
thể thí dụ"? Phải biết, Bát Nhã, giải thoát, Bồ Đề thì
có thể thí dụ, giả sử bỏ hết tất cả danh tướng, thì
nhất tâm đều bặt. Ngay khi ấy, còn lập được thí dụ
gì chăng? Hoặc theo người xưa nói : "Cò trắng với tuyết
chẳng đồng sắc, ánh trăng hoa lau chẳng giống nhau", lời
này há chẳng phải thí dụ ư?
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Ông muốn ở nơi tuyết trắng
hoa lau tìm đạo lý, chẳng khác gì nhận màu đỏ của vỏ
quít cho là lửa!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Diễn tả sừng thỏ dài 3 thước,
So với lông rùa ngắn l phân.
Lại có hạng người tánh hàm
hồ,
Tai mắt dường như chẳng thấy
nghe.
52. CHÆ ĐỘNG
VÔ ĐỘNG, ĐỘNG CHÆ VÔ CHÆ
DỊCH
Ngưng động chẳng phải tịnh,
động ngưng cũng chẳng phải ngưng.
LỜI KHAI THỊ
Muôn toa xe đồng ray, muôn sự
việc đồng lý. Muôn dụng cụ đồng kim loại, muôn làn sóng
đồng chất nước. Vạn tượng sum la, thảy đều là ông.
Ông nếu không tin, hãy vào bụng của Thích Ca, Đạt Ma đi
hành cước trăm ngàn vòng, mới biết tất cả vẫn y như cũ.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói: "CHÆ ĐỘNG VÔ
ĐỘNG, ĐỘNG CHÆ VÔ CHÆ", người nghĩa giải cho rằng : Lòng
từ bi thống thiết của Tổ Sư, đem hai bên động tịnh vò
thành một khối, nói trắng cho nghe, đại khái đồng ý chỉ
của Pháp sư Tăng Triệu nói "Tức tịnh mà động, tức động
mà tịnh", cũng là ý chỉ "VẠN PHÁP TỀ QUÁN". Chẳng những
động tịnh như thế, mà tất cả cảnh duyên cũng đều như
thế. Tức tịnh là động. Hoa rụng là do gió xuân đưa; tức
động là tịnh, băng tan cũng do mặt trời soi.
Người trí quán pháp chẳng
sai biệt,
Kẻ mê do đây khởi điên đảo.
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Lời này tạm gác một bên!
Nếu như chẳng động chẳng tịnh, ngay khi ấy, còn có lý
lẽ gì để thảo luận hay không? Nói mau, nói mau!
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Động tịnh mống khởi bệnh
liền sanh,
Nắm tay kéo nhau vào lửa hồng.
Con voi xưa nay vẫn như cũ,
Bọn mù mò mẫm thảy đều
sai.
53. "LƯỠNG KÝ
BẤT THÀNH, NHẤT HÀ HỮU NHĨ"
DỊCH
Hai đã chẳng thành, một làm
sao có.
LỜI KHAI THỊ
Biển Phật không bờ, sông
Thiền không đáy. Nước một thước, sóng một trượng, mãi
mãi không thôi. Mã Tổ bảo Bàng Uẩn "một hớp hết nước
Tây Giang"; "Tào Nguyên một giọt nước" của Pháp Nhãn, "Câu
hết làn sóng" của Thuyền Tử, tất cả thị phi trước kia,
chỉ liên lụy cho Hứa Do phải rửa lỗ tai mà thôi. Nước
lớn đầy trời, ngập khắp muôn dặm.
Lúc xưa chẳng biết bít nguồn
suối,
Đến nay đất bằng nổi làn
sóng.
LỜI NGHĨA GIẢI
Tổ Sư nói : "LƯỠNG KÝ BẤT
THÀNH, NHẤT HÀ HỮU NHĨ", người nghĩa giải cho rằng : THỊ
chẳng phi không thị, PHI chẳng thị không phi, vừa thấy có
thị, trước đã có phi, vừa thấy có phi, trước đã có thị.
Cho nên THỊ chẳng tự lập, PHI chẳng độc tồn, PHI là cội
của THỊ, THỊ là gốc của PHI. Cho đến chơn, vọng, ngộ,
mê, v.v... Tất cả đều vậy. Thế thì, cái hai của thị phi
đã trừ, cái nhất của trung đạo đâu còn! Tổ Sư đến
đây thật là mổ bụng thấy tâm, từ bi quá lố rồi!
TỊCH NGHĨA GIẢI, RẰNG
Nếu hai đã chẳng thành, một
cũng không có. Vậy còn có kẻ biết "chẳng thành" "không có"
chăng? Nếu nói "KHÔNG", thì ai biết sự chẳng thành, không
có? Nếu nói "Có", lại gọi là "KHÔNG CÓ" được chăng? Tổ
sư đến chỗ này, chỉ có phần đớ lưỡi.
KỆ KẾT THÚC, RẰNG
Chẳng thả xuân về, xuân tự
về,
Vườn cây mỗi mỗi hiện xanh
tươi.
Bông tím hoa hồng biết đâu
kể,
Bươm bướm từng đôi bay khắp
nơi.
|