|
.
Hoà
Thượng DUY LỰC Khai thị
CUỐI CÙNG
TẠI HOA KỲ
TT.
Thích Đồng Thường Biên Tập Thành Văn Tự
|
|
Hỏi:
Ngày
xưa, Ngài Hám Sơn trong khi tu có Ngài Cao Phong Diệu giúp đỡ;
ngày nay, chúng con cần phải học hỏi tìm hiểu, vậy có thể
chứng ngộ không?
Đáp:
Ngày
nay người ta tôn trọng khoa học và triết học, nhưng khoa
học và triết học hiện tại thì phải cứu lý tìm hiểu.
Phật pháp phải ngược lại lìa lý lìa tìm hiểu, Tiểu thừa
chấm dứt lục căn, không cho lục căn tìm hiểu. Ngũ Đình
Tâm Quán của Tiểu thừa là ngưng hoạt động của tâm, Trung
thừa và Đại thừa cuối cùng cũng đình chỉ hoạt động
của tâm. Đình chỉ tâm là mục đích đến chỗ kiến tánh,
đến lúc kiến tánh thì không cần đình chỉ nữa. Vì bản
thể tự tánh luôn luôn khắp không gian, khắp thời gian, không
bao giờ ngưng.
Như
cảm giác lớp da khắp không gian và thời gian của cơ thể.
Hoạt động của nó không bao giờ ngưng, mình ngủ mê nó cũng
không ngưng. Người ta thường nói: “Tiếp xúc nó thì nó
mới làm việc, không tiếp xúc thì nó không làm việc”, nhưng
sự thật thì không phải vậy! Tiếp xúc thì nó biết có tiếp
xúc, không tiếp xúc thì nó biết không tiếp xúc. Tiếp xúc
đau thì nó biết đau, tiếp xúc không đau thì nó biết không
đau, không có tiếp xúc mà nó biết không có tiếp xúc,…
nó 24/24 giờ ngày đêm không ngưng làm việc.
Bây
giờ, khoa học gọi cảm giác của lớp da là xúc giác, nhưng
không phải xúc nó mới giác, không xúc nó cũng giác. Hiện
nay nó đang giác, khắp cơ thể đụng chỗ nào nó cũng biết,
không đụng chỗ nào nó cũng biết. Không phải đụng đầu
thì đầu biết, đụng chân thì chân biết! Đụng đầu, đầu
biết có đụng, tay chân không tiếp xúc thì biết không có
tiếp xúc.
Dụng
Bát Nhã của tự tánh cũng như vậy, mình làm phàm phu là tự
hạn chế cái dụng, nhưng cái dụng vẫn đang dùng, chẳng
qua cái dụng được có ít. Như thính giác, thị giác, xúc
giác,… đang dùng, không có ngưng. Đó gọi là nhất niệm
vô minh. Tham thiền đến thoại đầu (vô thỉ vô minh), vô
thỉ vô minh tan rã là kiến tánh thành Phật thì Bát Nhã khắp
không gian, khắp thời gian.
Bát
Nhã khắp không gian thì cái dụng không chỗ nào thiếu sót,
Bát Nhã khắp thời gian thì cái dụng không bao giờ ngưng dùng.
Bây giờ khoa học cũng biết tất cả vật chất là do nhiều
nguyên tử tổ chức thành. Mỗi hạt nguyên tử ở giữa có
một trung tử, chu vi có nhiều điện tử. Nó ngày đêm xoay
hoài không bao giờ ngưng, nếu đem cái bàn này chặt tan nát,
mà nó vẫn xoay. Cái dụng Bát Nhã Phật tánh của mình cũng
vậy, không bao giờ ngưng, lúc nào cũng cùng khắp không gian.
Hỏi:
Người
xưa đến sự kiến tánh thì dễ, còn người thời nay cần
phải tu tập chặt chẽ để đưa đến sự kiến tánh phải
không?
Đáp:
Về
việc này, Phật Thích Ca đã lo trong Tăng đoàn thật kỹ. Như
Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không có cơ hội phạm giới được,
vì ở chung coi chừng với nhau, không cho sống riêng một mình.
Lại nửa tháng bố tát để kiểm thảo một lần, tức là
trước khi tụng giới để kiểm thảo. Làm pháp yết ma kiết
giới, cũng như phạm vi trong chùa thì tất cả chúng trong chùa
phải hợp lại. Nếu trong một phường thì chúng trong một
phường phải hợp lại, trong một huyện thì chúng trong một
huyện phải hợp lại, một tỉnh thì chúng trong một tỉnh
phải hợp lại, tùy theo giới hạn. Có chỗ không có giới
hành chánh thì phải cắm nêu, tức là ở trong phạm vi phải
đến.
Những
người bệnh nặng hoặc đi xa không thể đến, phải cử một
người báo cáo đại hội, nói có nguyên do gì không thể đến.
Người nói chuyện cà lăm không có tư cách để cho đại hội
ủy nhiệm. Một người chỉ có thay thế một người, chứ
không được thay thế cho nhiều người. Yết ma của đại
hội phải nhất trí 100% mới được, chứ thiếu 1% cũng không
được.
Trước
khi tụng giới phải kiểm thảo, vị chủ tịch hỏi “Tất
cả Tăng chúng nửa tháng nay có ai phạm giới không? Có thì
ra chúng sám hối”. Nếu tự mình biết thì nói ra, mình không
biết mà người ta thấy thì phải cử tội, hay là không thấy
mà có nghe, hay là không thấy không nghe mà có nghi, gọi là
kiến, văn, nghi.
Nếu
mình dấu tội mà người khác biết không ra cử tội, sau này
người ta phát giác ra thì người biết phải cùng tội người
phạm, tức là biết tội của bạn mình thì phải cử tội,
không được che dấu. Cho nên, người trong Tăng đoàn không
có cơ hội phạm giới. Tất cả đều phải y theo giới luật
quy cũ.
Bây
giờ, Tăng đoàn không có, có chỗ tự mình quyên tiền Phật
tử lập ra chùa để làm chủ. Nếu có phạm giới mà người
ta vẫn cúng dường, không có ai can thiệp. Thậm chí, những
người dùng đồ xa xí mà họ cũng đem đến cúng, hay những
người ăn mặn, họ cũng đem lại cúng. Tại bây giờ người
ta không theo yết ma của Phật để thực hiện. Giới luật
của Phật rất chặt chẽ, nên người ở trong Tăng đoàn khó
buông lung.
Ngài
Thái Hư đại sư định khôi phục lại Tăng đoàn, nhưng mà
việc làm không thành, vì các chùa đều có tài sản riêng,
nếu đem gom lại làm tài sản chung nên người ta không chịu.
Hỏi:
Thế
nào là thể, tướng, dụng?
Đáp:
Thể,
tướng, dụng, còn gọi là thể và dụng. Lục Tổ ví dụ
“thể là cây đèn, ánh sáng là dụng của cây đèn”. Thật
tế, thể với dụng là một. Ngài Nguyệt Khê nói: “Hiện
tượng với bản thể là một”. Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc
tức thị không, không tức thị sắc; sắc bất dị không,
không bất dị sắc” là bản thể với hiện tượng chẳng
có khác. Hiện tượng là dụng, bản thể là thể.
Kỳ
thật, thể là không, không là dụng (dùng), tất cả hiện
tượng đều ở trong cái không này tức là dùng. Chỉ thấy
hiện tượng, không thấy được bản thể, vậy hiện tượng
là cái thể. Nếu không có hiện tượng thì không biết được
bản thể. Cho nên, hiện tượng tức là bản thể, bản thể
tức là hiện tượng. Nếu chia ra hiện tượng là dùng, bản
thể là không (hư không trống rỗng).
Nếu
không có hư không trống rỗng thì hiện tượng không thể
xảy ra, tất cả vũ trụ vạn hữu đều ở trong hư không
trống rỗng này. Cho nên, người kiến tánh thì tất cả hiện
tượng vẫn y như cũ, chỉ là không đem tư tưởng của cá
nhân xen vào. Vì vậy nói: “Núi sông vẫn là núi sông”,
ban đầu cho núi sông là thật, sau cho núi sông là không thật,
nhưng cuối cùng thật và không thật chỉ là của bộ óc phân
biệt. Vậy núi sông vẫn là núi sông, tất cả cái gì vẫn
y như cũ.
Kinh
Pháp Hoa nói: “Pháp nào trụ theo pháp đó, tướng thế gian
thường trụ”. Mình không đem ý của mình xen vào cho là đúng,
cho là sai. Có 2 chữ “cho là” không phải bản lai diện mục,
bản lai diện mục là bất nhị không có tương đối, nên
phải lìa lý. Vì có lý thì phải có bất hợp lý để làm
tương đối, đúng lý và không đúng lý làm tương đối. Biết
và không biết làm tương đối, nên phải lìa tương đối.
Nếu
lìa tương đối thì người thế gian không chịu, vì họ muốn
cầu biết. Nếu vậy không có cái biết để cầu, không có
cái lý để nghiên cứu, nên họ không chịu. Bây giờ khoa
học cũng phải nghiên cứu tìm hiểu cái mới để phát minh
cái mới, rồi không cho nghiên cứu tìm hiểu thì không được!
Hỏi:
Thế
nào là giữ giới?
Đáp:
Giới
nhà Phật gồm có 3 cấp:
-
Giới phổ thông nửa tháng tụng giới để biết làm theo cho
đúng, gồm có giới của cư sĩ, Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni. Như muốn nhớ giới phổ thông này để giữ thì
rất khó.
-
Thiền giới là có thiền định thời gian 24/24 giờ ngày đêm
thì không phạm giới, nếu có kẽ hở không thiền định,
kẽ hở đó có thể phạm giới. Đây còn gọi là định cộng
giới, tức có thiền định là giữ giới, khỏi cần biết
giới luật, khỏi cần thọ giới.
-
Lậu tận giới (chứng đạo) thì tự nhiên giữ giới được.
Hỏi:
Nếu
nói phạm tội của người bạn, có phải mình để ý đến
chuyện người khác không?
Đáp:
Vì
sống chung nếu ai làm chuyện gì thì mọi người đều thấy
biết. Cái dụng của Bát Nhã không bao giờ ngưng làm việc,
ví dụ như cảm giác của lớp da không bao giờ ngưng biết,
tất cả mọi việc nó đều tự động. Khi nào cái dụng Bát
Nhã muốn dùng thì tự động dùng, khi chưa dùng nó không nhớ.
Giống như cảm giác của lớp da thì đâu cần nhớ? Vì bản
tánh nó luôn luôn khắp không gian, khắp thời gian.
Dụng
Bát Nhã mình đang dùng, vì mình dùng ý thức để phân biệt
nên cái dụng phải bị hạn chế. Hư không là vô sở hữu
(tâm), do mình kiến lập sở hữu, cái sở hữu này thì phải
nhớ. Nếu không có sở hữu thì lấy cái gì để nhớ? Vì
có sở hữu thì phải có nhớ có quên. Còn bản thể không
có nhớ hay quên, không cần phải qua tác ý của bộ óc, nên
gọi là Bát Nhã.
Hỏi:
Từ
một ngày đến 7 ngày, niệm Phật được nhất tâm bất loạn,
tâm không điên đảo thì được vãng sanh; còn Thiền tông,
Ngài Cao Phong Diệu nói: “ Tham thiền nghi tình được miên
mật, nếu không ngộ thì chặt đầu của lão Tăng”. Như
vậy 2 ý trên như thế nào?
Đáp:
Đó
chỉ là lời nói, chưa phải thực hành. Nếu thực hành Thiền
tông dễ hơn tu Tịnh Độ. Thiền tông có vị Hải Minh quyết
tâm 7 ngày sẽ kiến tánh, nhưng chỉ có 5 ngày kiến tánh và
Phật Đăng Thuần tham thiền 49 ngày đêm đi liên tục, không
đứng không ngồi nên được kiến tánh. Bây giờ không có
ai làm nổi.
-
Niệm Phật có 3 thứ niệm: Mật niệm, niệm ra tiếng và kim
cang niệm (môi chỉ nhúc nhích), nhưng cái niệm không quan trọng,
mà quan trọng là cái nguyện và cái tin. Vì lòng tin vững chắc
thì cái nguyện mới chân thật.
Hỏi:
Thế
nào là Mật tông?
Đáp:
Mật
tông là tam nghiệp gia trì: Tay bắt ấn, miệng niệm chú, tâm
quán tưởng, 3 cái một lượt.
Hỏi:
Kính
xin Sư Phụ khai thị bài kệ:
Tội từ tâm khởi lấy tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi tội liền tiêu.
Tội tiêu tâm diệt, cả hai đều không,
Aáy mới thật là chơn sám hối.
Đáp:
Đó
mới thật chơn sám hối, chứ không phải đến bàn thờ Phật
mà sám hối. Vì tội là do tâm tạo, nếu tâm diệt thì tội
cũng diệt luôn. Còn tâm không diệt, làm sao tội diệt được?
Hỏi:
Sự
đi khất thực của các thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại
thừa và Tối thượng thừa) có khác nhau không?
Đáp:
Ngày
xưa, Đức Phật Thích Ca cũng đi khất thực, như trong kinh
Kim Cang diễn tả “Đức Phật đi vào thành Xá Vệ khất thực,
rồi về Tinh Xá dùng cơm xong trải tòa thuyết pháp”. Chứ
không có phân biệt Tiểu thừa, Đại thừa gì cả!
Hỏi:
Cách
hành trì của Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa như thế
nào?
Đáp:
Đại
thừa gồm Tối thượng thừa, Tiểu thừa gồm Trung thừa.
Có 5 thứ khác biệt:
1.
Điểm xuất phát chẳng đồng:
a.
Tiểu thừa: Bắt nguồn từ nhân sinh quan đắm khổ, nghiệp
cảm duyên khởi, nhàm chán phiền não mà cầu nơi thanh tịnh.
b.
Đại thừa: Từ nhân sinh quan từ bi, chân như tỏa ra, lấy
hóa tha tự tại làm chí nghiệp.
2.
Hành vi chẳng đồng:
a.
Tiểu thừa: Tự lợi tự độ, chỉ được giải thoát theo
tiêu cực, tức là lấy đoạn dứt phiền não làm Niết bàn
và mục tiêu cuối cùng.
b.
Đại thừa: Tự độ độ tha, lấy hoạt động tích cực làm
hành vi, đắc đại tự tại làm tư tưởng chung cuộc.
3.
Cảnh giới chẳng đồng:
a.
Tiểu thừa: Ngừng nơi hiện tượng giới.
b.
Đại thừa: Vào nơi thật tại giới.
4.
Phương pháp chẳng đồng:
a.
Tiểu thừa: Dứt lục căn, đoạn nhất niệm vô minh, vào nơi
đoạn diệt, chủ nghĩa cấm dục.
b.
Đại thừa: Phá vô thỉ vô minh, kiến Phật tánh, chủ nghĩa
tự tại, chủ nghĩa thật tại (Chân Như), sắc tâm và pháp
đều tồn tại vĩnh viễn.
5.
Lý luận chẳng đồng:
a.
Tiểu thừa: Tầm khảo sát ngưng nơi hiện tượng và cho rằng
chủ khách thực tế tồn tại, là nhị nguyên luận, ngoài
ra dùng chủ nghĩa cảm giác phủ định những thật tại ngoài
cảm giác.
b.
Đại thừa: Siêu việt phạm vi nhận thức của bộ não, sự
cùng tột của thật tại với hiện tượng giới chẳng khác,
chủ khách như một, chân vọng hiệp nhất, là nhất nguyên
luận, là thật tại luận siêu việt Hình Nhi Thượng.
Triết
học phương Tây chỉ có hai giai đoạn: Ngã chấp và pháp chấp
đều nằm trong phạm vi nhất niệm vô minh, tức là tư duy
và lý niệm. Nhưng tư duy và lý niệm đều là hóa thân của
nhất niệm vô minh, cũng là tác dụng của bộ não.
Mục
đích triết học phương Tây là nghiên cứu lý luận để tìm
hiểu nên chẳng chịu rời bỏ nhất niệm vô minh, bởi vì
nếu tiến vào phạm vi của vô thỉ vô minh thì cảm giác trống
rỗng chẳng có lý luận để truy cứu, cũng chẳng có gì để
tìm hiểu, hoàn toàn trái ngược với mục đích của họ.
Cho
nên, xưa nay các nhà triết học phương Tây chưa ai từng đi
vào cảnh giới vô thỉ vô minh, hễ chưa vào cảnh giới vô
thỉ vô minh thì chẳng thể đột phá cái chấp không, cũng
chẳng vào được tuyệt đối. Phá được cái chấp không
là kiến tánh, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn.
Mục
đích của nhà triết học phương Tây là truy lý cầu tri, còn
mục đích tu trì Phật pháp là liễu thoát sanh tử; triết
học phương Tây chú trọng lý luận, Phật pháp thì chú trọng
thực tiễn, tức là từ nhất niệm vô minh tiến thẳng vào
tuyệt đối vậy.
|