|
.
Hoà
Thượng DUY LỰC Khai thị
CUỐI CÙNG
TẠI HOA KỲ
TT.
Thích Đồng Thường Biên Tập Thành Văn Tự
|
|
Hỏi:
Sư
Phụ giảng lại tứ tướng?
Đáp:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu giác tâm này bản tánh trong sạch, vì
sao bị ô nhiễm, khiến những chúng sanh mê muội chẳng thể
ngộ nhập? Xin Như Lai vì chúng con khai thị pháp tánh, để
làm đạo nhãn cho tương lai, khiến cho đại chúng trong hội
này và chúng sanh đời mạt pháp dễ được ngộ nhập.
Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát nói xong, 5 vóc gieo sát đất,
đảnh lễ thưa thỉnh 3 lần như vậy.
Bấy
giờ, Thế Tôn bảo Tịnh Chư Nghiệp chướng Bồ Tát rằng:
-
Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi khéo vì các Bồ Tát
và chúng sanh thời mạt pháp, hỏi Như Lai về những phương
tiện như thế. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà
thuyết.
Khi
ấy Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát và đại chúng hoan hỷ
vâng lời Phật dạy, im lặng nghe.
-
Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vọng
chấp thật có 4 tướng: Ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, nhận
lầm 4 tướng điên đảo là thật thể của mình, do đó liền
sanh 2 cảnh yêu ghét, vậy nơi thể hư vọng lại chấp thêm
một lớp hư vọng nữa. 2 thứ vọng nương nhau sanh ra vọng
nghiệp, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy có luân hồi.
Kẻ
nhàm chán luân hồi lại liền thấy có Niết Bàn, do sự
chấp thật ngã tướng này nên chẳng thể ngộ nhập được
bản giác trong sạch. Chẳng phải bản giác chống cự với
những kẻ năng nhập, vì có kẻ năng nhập (ngã tướng) thì
chẳng phải bản giác vậy.
Cho
nên, động niệm và dứt niệm đều là mê muội. Tại sao?
Vì có bổn khởi vô minh đã làm chủ cho mình từ vô thỉ
rất khó đoạn trừ, phải có huệ nhãn mới trừ được.
Vì tất cả chúng sanh, sanh ra chẳng có huệ nhãn, hiện tiền
các tánh thân tâm đều là vô minh, vô minh chẳng thể tự
dứt vô minh, cũng như người có sinh mạng, sinh mạng chẳng
thể tự dứt sinh mạng vậy.
Vậy
ngươi nên biết, có người yêu ta tùy thuận với ta thì tâm
sanh hoan hỉ, người chẳng tùy thuận thì liền sanh oán ghét.
Có tâm yêu ghét để nuôi dưỡng vô minh, làm cho vô minh
tương tục mãi, nên cầu đạo chẳng thể thành tựu.
Thiện
nam tử! Thế nào là ngã tướng? Những chúng sanh tu hành, tâm
biết có sở chứng đều thuộc về ngã tướng.
Thiện
nam tử! Ví như có người cơ thể điều hòa thư thái, tay
chân thư giãn, bỗng quên mất thân ta, vì ăn uống thất thường
sanh bệnh hoạn, nhờ thầy thuốc châm cứu thấy đau mới
biết có ta còn đây, cho nên người chấp có sở chứng mới
hiện ra ngã tướng.
Thiện
nam tử! Nếu tâm liễu tri rốt ráo biết có sở chứng, dù
chứng đến thanh tịnh Niết Bàn của Như Lai đều thuộc về
ngã tướng.
Thiện
nam tử! Thế nào là nhơn tướng? Như những chúng sanh tâm
có sở chứng, cho kẻ năng chứng là ta, nay tiến thêm một
bậc, ngộ biết chứng chẳng phải là ta, ngộ này siêu việt
tất cả chứng, nhưng còn giữ tâm ngộ tức là nhơn tướng.
Thiện
nam tử! Những tâm biết có năng sở đều thuộc về ngã,
tâm dù chỉ còn chút năng ngộ để chứng lý cùng tột của
Niết Bàn đều gọi là nhơn tướng.
Thiện
nam tử! Thế nào là chúng sanh tướng? Chỗ này là những chúng
sanh có tâm biết năng chứng năng ngộ đều chẳng thể biết.
Thiện
nam tử! Ví như có người nói rằng: “Ta là chúng sanh”,
thì biết kẻ nói chúng sanh kia chẳng phải ta cũng chẳng phải
ngươi. Sao nói chẳng phải ta? Vì “ta là chúng sanh” thì
chẳng phải ta, sao nói chẳng phải ngươi? Vì nói “ta là
chúng sanh” thì chẳng phải ngươi cũng chẳng phải ta vậy.
Lược
giải:
Nói
“ta là chúng sanh” vì chúng sanh là nhiều người nhiều loài.
Nay nói “ta” chỉ có một mình ta, như thế thì chúng sanh
chẳng phải “ta”; nói ngươi cũng vậy, nghĩa là chỉ có
một mình ngươi chẳng phải nhiều chúng sanh, nên nói “ta
là chúng sanh” thì chẳng phải “ngươi” cũng chẳng phải
“ta” vậy. (lược giải hết).
Thiện
nam tử! Nếu những chúng sanh có tâm biết năng chứng năng
ngộ đều là Ngã tướng, Nhơn tướng. Nay tiến thêm một
bậc, liễu tri chỗ này là Ngã tướng, Nhơn tướng chẳng
thể đến, nhưng còn có sở liễu tri, biết có năng chứng
năng ngộ để lìa, nên gọi là Chúng sanh tướng.
Thiện
nam tử! Thế nào là Thọ mạng tướng? Những chúng sanh tiến
thêm một bậc nữa, tâm quán chiếu sáng tỏ chiếu soi tâm
liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ còn một giác thể trong
sạch; giác thể này tất cả nghiệp trí trong luân hồi đều
chẳng thể tự thấy được, cũng như con mắt chẳng tự thấy
mắt, tất cả tịch diệt. Vì trụ nơi tịch diệt thì mạng
căn chưa dứt, nên gọi là Thọ mạng tướng.
Thiện
nam tử! Nếu tâm chiếu soi thấy tất cả người giác tri và
cấu bẩn của trần lao. Có năng giác sở giác là chẳng lìa
được trần lao. Ví như nước canh làm băng tan, nước canh
là năng tan, băng là sở tan; khi băng đã tan thì nước canh
và băng đều thành nước, năng tan (nước canh) sở tan (băng)
đều diệt, nếu còn có kẻ biết băng tan thì còn cái năng
biết, cái biết đó là ngã. Nói “còn Thọ mạng tướng”
thì nghĩa cũng như vậy.
Thiện
nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ 4 tướng không
thật, dù trải qua nhiều kiếp siêng năng khổ hạnh tu hành,
chỉ gọi là pháp hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu
tất cả Thánh quả (pháp vô vi), cho nên gọi là “chánh pháp
trong đời mạt pháp”. Tại sao? Vì lầm nhận tất cả ngã
tướng cho là tướng Niết Bàn; cho có chứng có ngộ mới
gọi là thành tựu.
Cũng
như có người nhận giặc làm con thì tài sản nhà họ chẳng
thể thành tựu. Tại sao? Như có người luyến ái ngã, cũng
luyến ái Niết Bàn, đè nén gốc luyến ái ngã trở thành
tướng Niết Bàn; có người chán ngã, cũng chán sanh tử, chẳng
biết gốc luyến ái ấy mới thật là chơn sanh tử vậy. Nay
có tâm nhàm chán sanh tử, nên gọi là chẳng giải thoát.
Tại
sao biết được pháp ấy chẳng giải thoát?
Thiện
nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp tu tập Bồ Đề, cho sự
chứng của mình tự trong sạch, chứng được chút ít cho là
đủ, chưa dứt sạch cội gốc của ngã tướng nên chẳng
giải thoát. Nếu có người tán thán pháp mình thì liền sanh
tâm hoan hỉ, muốn cứu độ họ; nếu phỉ báng pháp sở đắùc
của mình thì liền sanh tâm sân hận. Vậy thì biết cái tâm
chấp ngã tướng rất kiên cố, tiềm ẩn trong tạng thức,
gặp ngoại cảnh kích thích thì phát khởi hiện hành nơi các
căn, mãi chẳng gián đoạn.
Thiện
nam tử! Người tu hành vì chẳng dứt sạch ngã tướng nên
chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.
Thiện
nam tử! Nếu biết ngã tướng vốn không, chẳng có bản ngã
để cho họ tán thán và phỉ báng; nay thấy “có ta thuyết
pháp” thì ngã tướng chưa dứt, nhơn tướng, chúng sanh tướng,
thọ mạng tướng đều cũng như thế.
Thiện
nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chưa dứt ngã tướng,
cho sự thuyết pháp là “do ta thuyết”, nên pháp của họ
thuyết là cái bệnh của ngã tướng, chẳng phải thuyết cái
pháp của Niết Bàn vậy, cho nên gọi là kẻ đáng thương
xót! Dù siêng năng tinh tấn, chỉ tăng thêm các pháp bệnh,
nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.
Thiện
nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chẳng thấu rõ 4 tướng
kể trên, chấp chỗ hành và kiến giải của Như Lai cho là
kiến giải của mình, vì chẳng phải do tự mình tu chứng,
nên rốt cuộc chẳng thể thành tựu. Hoặc có chúng sanh chưa
đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, thấy người hơn ta
thì sanh ganh tỵ, ấy là do chúng sanh chưa dứt ngã kiến, nên
chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.
Thiện
nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu thành đạo, chớ
nên sanh tâm cầu ngộ; người sanh tâm cầu ngộ thì muốn
học rộng nghe nhiều để hiểu thêm giáo lý, vậy chỉ thêm
đa văn tăng trưởng ngã kiến, chẳng phải người chơn tu.
Người
chơn tu chỉ nên tinh tấn hàng phục phiền não, khởi tâm đại
dũng mãnh: Niết Bàn chưa đắc khiến cho đắc, phiền não
chưa dứt khiến cho dứt. Những tâm tham, sân, si, mạn, siểm
khúc, ganh tỵ đối cảnh chẳng sanh, ân ái giữa mình và người
tất cả đều tịch diệt, Phật nói người ấy sẽ dần dần
thành tựu Thánh quả. Nương theo nhân địa này tu hành để
cầu thiện trí thức thì chẳng đọa tà kiến, nếu có sở
cầu khác với nhân địa phát tâm kể trên, lại sanh lòng
yêu ghét thì chẳng thể ngộ nhập biển giác trong sạch.
Lúc
ấy Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Tịnh
Nghiệp Chướng nên biết,
Tất
cả những chúng sanh,
Đều
do chấp ngã tướng,
Luân
hồi từ vô thỉ.
Chưa
dứt sạch bốn tướng,
Chẳng
được thành Bồ Đề.
Yêu
ghét sanh nơi tâm,
Siểm
khúc giữ trong niệm.
Cho
nên bị mê muội,
Chẳng
thể vào giác thành.
Nếu
muốn về cõi Phật,
Phải
bỏ tham sân si,
Tâm
chẳng luyến ái pháp
(pháp
Niết Bàn),
Dần
dần được thành tựu.
Thân
ta vốn chẳng có,
Yêu
ghét do đâu sanh?
Cầu
thầy bạn chánh tu,
Thì
chẳng đọa tà kiến.
Nếu
tâm cầu pháp khác,
Rốt
cuộc chẳng thành tựu.
“Ta
đã chứng Niết Bàn” thì Thiền tông gọi là mạng căn chưa
dứt, cũng còn ngã tướng. Trong kinh Viên Giác diễn tả: “Ngã,
Nhân, chúng sanh, thọ mạng”, còn kinh Kim Cang nói: “Ngã,
nhân, chúng sanh, thọ giả”. Vì nhận lầm 4 tướng này, nên
tu hành không dứt được ngã kiến.
Hỏi:
Bạn
bè biết con tu rồi đến hỏi con. Vậy con phải nói làm sao?
Đáp:
Người
ta hỏi cái gì, mình thật biết thì nói biết, còn không biết
thì nói không biết.
-
Nhưng cái biết của mình sai thì sao?
-
Nếu mình sợ sai thì mình nói là không biết.
-
Nhưng nhiều khi tưởng mình đúng thì sao?
-
Nếu có tưởng là không phải rồi, tại không có đúng sai.
Tương đối có đúng có sai là nhị. Nếu mình cho lời Phật
Thích Ca thuyết đúng hay không đúng đều sai. Tại sao? Vì
lời thuyết pháp của Phật Thích Ca muốn lìa tương đối,
tức là muốn lìa đúng với sai. Nếu nói Phật Thích Ca thuyết
pháp là phỉ báng Phật. Phật Thích Ca thuyết pháp không phải
đúng sai.
Hỏi:
Bây
giờ mình khởi niệm đều là tương đối có phải không?
Đáp:
Không
phải, nếu mình không có trước tưởng thì không lọt vào
tương đối, tức là chỉ có thế lưu bố tưởng mà không
có trước tưởng. Như bậc Thánh nói có hay nói không có cũng
được, vì không chấp có là thật có, không chấp không là
thật không, chỉ là tùy theo thế gian gọi là thế lưu bố
tưởng.
Cho
nên, chúng sanh nói con trâu thì bậc Thánh cũng nói con trâu,
chúng sanh nói con ngựa thì bậc Thánh cũng nói con ngựa (kinh
Đại Niết bàn).
-
Con vẫn hiểu điều đó, nhưng thực hành sao không được?
-
Tại còn có ngã chấp nên mới khó, chưa dứt sạch cội nguồn
của ngã. Nếu chưa ra khỏi luân hồi, còn dùng tri kiến luân
hồi muốn tìm Viên Giác thì tánh Viên Giác cũng bị luân hồi.
Hỏi:
Có
người giải thích “sắc bất dị không, không bất dị sắc”,
rằng: Sắc chẳng phải từ không mà có, phải từ duyên mà
ra gọi là “sắc bất dị không”; khi sắc hết duyên thì
trở lại cái không gọi là “không bất dị sắc”. Giải
thích như vậy thì như thế nào?
Đáp:
Họ
giải thích như vậy là cho nhân duyên thật. Bài kệ của ngài
Long Thọ nói:
Các pháp chẳng tự sanh,
Cũng chẳng từ tha sanh.
Chẳng cộng chẳng vô nhân,
|