Vì
muốn hoằng pháp ở tây phương, nên mới dùng những danh từ
khoa học, người tây phương dễ chấp nhận. Thật tế, Phật
pháp là thực dụng hằng ngày. Khoa học chỉ căn cứ có thể
tích, giải thích theo sức lực của vật chất. Sức lực vật
chất, mỗi thứ vật chất bất cứ cái gì, phàm có thể tích
đều có từ trường, sức từ trường gọi là từ lực.
Chữ
“từ” là tiếng Hán - Việt nghĩa là sức hút, giống như
nam châm. Sức hút là từ lực, người phát hiện đầu tiên
là Newton, khi ông ta thấy trái bôm ở trên cây rớt xuống,
ông nghi tại sao trái bôm rớt xuống mà không rơi lên? Ông
mới ngộ được hấp dẫn lực của quả đất, rồi từ đó
phát hiện hấp dẫn lực của vạn hữu, tức là tất cả
các vật chất vật thể đều có từ trường.
Tổng
quát nguồn gốc của Phật pháp bắt đầu chỗ từ lực tức
là bắt đầu chỗ Newton.
-
Mọi sinh hoạt văn minh của nhân loại, vạn tượng sum la bao
gồm giáo dục, chính trị, văn hóa, kinh tế, y học… đều
nhắm chung mục đích là mong cầu hạnh phúc cho con người.
Cho
đến nay, khoa học kỹ thuật đã đóng vai trò dẫn đầu trong
việc thực hiện mưu cầu này. Nhưng chưa thành công. Vì căn
bản mọi ngành, mọi môn khoa học, chỉ lợi dụng những năng
lượng phát ra từ vật chất nên vĩnh viễn bị thời gian,
không gian hạn chế.
Nay
chỉ còn một năm nữa là chúng ta bước vào thế kỷ XXI.
Nếu muốn từ hữu hạn tiến đến vô hạn thì chúng ta nên
chú tâm đến một nguồn năng lượng khác, là nguồn năng
lượng phát ra từ phi vật chất.
Trong
bài này, các vấn đề lực học Newton, lực học Einstein và
lực học của Thích Ca Mâu Ni sẽ lần lượt đề cập để
chúng ta cùng nhau tham khảo.
Rất
mong được nhận ý kiến đóng góp của quý vị độc giả
đồng bước tiến vào thế kỷ XXI.
Kết
luận của Vũ Trụ Quan:
- Muốn
kiến lập lý luận từ tương đối đến tuyệt đối, trước
tiên phải bắt đầu từ lực học Newton đến lực học Einstein.
Nếu giả thuyết tốc độ vận động của vật chất từ
0 đến 100, thì Newton từ 0 đến 50, thuộc thuận hành tính
bất biến; còn Einstein thì 0 đến 50, rồi lại tiến thêm
từ 50 đến 100, thuộc tính khả biến và chuyển đổi lẫn
nhau; còn lực học của Thích Ca Mâu Ni chẳng những từ 0 đến
100, lại từ 100 đến 200, đến 300… cho đến vô cùng tận.
Tóm
lại, quan điểm của nhà khoa học chỉ có khả năng quan sát
những sự vật tương đối trong vũ trụ. Vì vạn sự vạn
vật đều chẳng thể mỗi mỗi tự độc lập, cần phải
nhờ nhân duyên tương đối mà thành: Như gà sanh trứng, trứng
sanh gà. Như âm dương tương đối, hút đẩy tương đối,
đồng tính thì chống nhau, khác tính thì hút nhau, khi hấp
lực lớn đến mức độ “N” thì tốc độ ánh sáng có
thể bị hấp lực nuốt mất.
Vạn
vật trong vũ trụ hoại nhau mà giúp nhau và ăn nuốt lẫn nhau,
đã thống nhất, lại mâu thuẫn, biến hóa chẳng định, lại
chẳng thể tăng giảm. Như nước có thể diệt lửa, nhưng
nếu đem nước phân tích thành hai thứ khí thể H,O, thì trở
lại thành lửa, H có thể tự cháy, O có thể giúp cho sự
cháy. Dù hoại nhau, thành nhau, mà cùng tồn tại bất diệt.
Chúng
ta ở trong hoàn cảnh vạn tượng sum la lăng xăng, phức tạp,
nhiễu loạn chẳng ngừng này, mỗi mỗi vì dục vọng của
bản thân mà cạnh tranh lẫn nhau, từ đao kiếm súng ống,
chiến tranh kinh tế, từ chiến tranh lạnh đến chiến tranh
nóng, và từ chiến tranh nóng qua chiến tranh lạnh; từ chiến
tranh cá nhân với cá nhân, cho đến chiến tranh quần thể
với quần thể. Thiên tai nhân họa tranh nhau mà đến.
Xưa
kia còn tưởng thiên tai là việc không thể đối phó được,
nhưng hiện nay mới phát hiện thiên tai cũng là do nhân họa
tạo thành. Chúng ta ở trong hoàn cảnh thiên tai nhân họa tranh
nhau ùn đến chẳng ngừng này, đâu thể hưởng thụ cuộc
sống hạnh phúc. Tại sao con người một mặt tạo ra tai nạn,
một mặt thì kêu gọi đóng góp để cứu nạn, thực là mâu
thuẫn tức cười. Cho nên Đức Phật nói “Tất cả do tâm
tạo” là vậy.
Nếu
chúng ta chịu nương theo sự chỉ dạy của Đức Phật về
phương cách cuộc sống, thì hạnh phúc ở nơi trước mắt,
chớ chẳng cần tìm cầu. Nói một cách khác, tức là “vô
vi mà vô sở bất vi”. Nói vô vi là giữ cái tâm này chẳng
sanh khởi hai chữ “cho là” (chấp thật) mà thôi. Việc này
dù xem rất đơn giản, nhưng thực tại thì khó làm được.
Đó là vì tập khí của chúng ta, lúc đối cảnh ắt phải
khởi tâm động niệm, nhất định phải dùng “cho là” để
lạc vào tương đối, rồi từ đó thị phi tốt xấu ùn lên,
và phiền não cũng theo đó mà đến. Lực học của Thích Ca
Mâu Ni chỉ là như thế, như thế.
Đã
vì đói khát mà ăn uống thì cứ ăn uống, chẳng nghĩ cái
khác, đã vì che thân chống lạnh mà mặc áo thì cứ mặc
áo, chẳng nghĩ cái khác, mỗi mỗi chức nghiệp phải đúng
vị trí của nó, chẳng nghĩ cái khác. Vậy thì, cha giữ đúng
vai trò của cha; mẹ giữ đúng vai trò của mẹ; con cái giữ
đúng vai trò của con cái; chồng giữ đúng vai trò của chồng;
vợ giữ đúng vai trò của vợ… tất cả đều giữ đúng
vai trò của mình, làm tròn bổn phận, an cư lạc nghiệp thì
tự nhiên mọi người đều được an lạc hạnh phúc, thiên
hạ thái bình.
Ghi
chú: Vai trò.
Nghĩa
là tùy theo truyền thống xưa nay của mỗi dân tộc và nhà
nước, phong tục, tập quán, pháp luật khác nhau thì vai trò
cũng theo đó khác nhau, như truyền thống Việt Nam, Trung Quốc,
truyền thống Mỹ… mỗi mỗi đều khác nhau là vậy.
Phật
pháp là hiển bày tâm của mọi người. Người ta hiểu lầm
tâm là bộ óc. Nếu qua bộ óc thì gọi là vọng tâm, không
phải là chân tâm. Bộ óc là vật chất, hệ thống thần kinh,
lục căn đều là vật chất; còn chân tâm không phải là vật
chất, lìa vật chất. Bây giờ người ta chỉ biết danh từ
là tâm, ai cũng nói được, tại vì tâm chỉ một danh từ.
Nhưng mà tâm là cái gì không có ai biết? Kỳ thật, chân tâm
không có thể tích. Mặc dầu, Phật nói tâm như hư không,
người ta cũng không thể tưởng tượng được.
Cho
nên, Ngài Long Thọ là Tổ 14 của Thiền tông giải thích kỹ,
dùng hư không vô sở hữu để thí dụ chân tâm của tất
cả chúng sanh. Vì nó không có thể tích, là trống rỗng; trống
rỗng là vô sở hữu tức là không có, nó không có mà nó
thực dụng, cũng như hư không trống rỗng chẳng có cái gì,
nhưng mà tất cả đều phải nhờ cái trống rỗng này dung
nạp và ứng dụng.
Theo
mình biết đất đai, nhà cửa, cây cối, bất cứ cái gì đều
cũng nhờ cái vô sở hữu này dung nạp và ứng dụng; cho đến
bây giờ cũng nhờ không gian vô sở hữu này, quý vị mới
nghe được tôi giảng; quý vị nhìn thấy nhau cũng phải nhờ
không gian vô sở hữu mới nhìn thấy nhau được. Cuộc sống
hằng ngày, nói năng tiếp khách cũng đều nhờ không gian vô
sở hữu này, mình mới có cuộc sống rồi mới phát huy được.
Nhưng
chỉ tiếc mình ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết, còn
tưởng là có cái Phật pháp riêng biệt, mấy cái danh từ
để cho mình đi tìm hiểu như là: Bồ Đề, Niết Bàn, giải
thoát, Như Lai,…
Kỳ
thật, nó trống rỗng vô sở hữu thì không có chỗ để trói
buộc gọi là giải thoát, đâu phải bị buộc rồi mở trói
mới là giải thoát! Vì trống rỗng thì tự nhiên nó khắp
hư không, thì không có khứ lai, nên mới gọi là Như Lai, đúng
như bản lai. Tại khắp không gian thì tự nhiên phải khắp
thời gian, khắp thời gian thì không gián đoạn sanh diệt,
nên gọi là Niết Bàn. Niết Bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là
bất sanh bất diệt.
Tâm
của mọi người có tánh giác ngộ là Phật, nên mới gọi
tên Phật tánh. Vì trống rỗng vô sở hữu gọi là Tánh không.
Tánh không này không phải là cái không chết mà có cái biết.
Nếu không có cái biết thì ai biết có thực dụng! Cái biết
cao nhất mà Phật pháp gọi là Diệu Giác. Còn cái biết của
bộ não gọi là vọng giác thì không phải là thực tế, mà
lại che khuất thực tế.
Nhưng
bây giờ nhà khoa học tin bộ não trở thành thói quen. Như
nhà khoa học dạy toán ở trường đại học Luân Đôn danh
tiếng khắp thế giới; ông ấy bị bệnh cơ bắp rút nên
phải ngồi xe lăn, miệng không nói ra tiếng, phải qua cái
máy mới ra tiếng, người nào học khoa học thì biết. Ông
ấy là giáo sư giỏi toán, nhưng lại nghịch với định lý
toán.
Tại
sao? Người học toán đều biết không có con số nhỏ nhất,
tức là không thể bắt đầu, mà nhà khoa học ấy lại tìm
sự bắt đầu của vũ trụ. Ông đề ra câu hỏi: Vũ trụ
có bắt đầu chăng? Và tìm sự bắt đầu của sanh mạng,
ông lại đề ra câu hỏi: Con gà có trước hay trứng gà có
trước?
Kỳ
thật, ông dạy toán, định lý của toán là không có sự bắt
đầu, mà tìm sự bắt đầu thì không thể được. Vì vậy,
Phật nói “bất khả đắc” gọi là vô thỉ (không bắt
đầu), không có bắt đầu thì không có cuối cùng, nên theo
toán học không có con số nào là lớn nhất và không có con
số nào nhỏ nhất. Nếu có số lớn nhất tức là có cuối
cùng, có số nhỏ nhất tức là có bắt đầu.
Ông
là nhà khoa học danh tiếng nhất thế giới, là giáo sư giỏi
toán, người trên thế giới ai cũng tôn sùng, mà ông lại
nghịch với định lý toán, vì muốn tìm sự bắt đầu
của vũ trụ và sanh mạng! Nếu theo lực học của Thích Ca
Mâu Ni gọi đó là si mê. Nhưng bây giờ gọi nhà khoa học
si mê có ai chịu đâu?
Kỹ
thuật khoa học thì dẫn đầu để tạo hạnh phúc cho con người,
nhưng tạo hoài mà cái khổ vẫn nhiều thêm; cũng như y học
tiến bộ thì vi trùng càng phát triển nhanh hơn y học. Còn
khoa học tiến bộ thì nguyên tử giết người nhanh hơn nhiều
lần.
Theo
lực học của Newton thì 0 đến 50 thuộc tánh thuận hành bất
biến, lúc thời Newton chưa có xe hơi và máy bay. Còn đến
Einstein không những từ 0 đến 50, lại từ 50 đến 100 thuộc
tánh khả biến, chuyển đổi lẫn nhau. Làm sao chuyển đổi?
Như bây giờ nhà khoa học biết thể tích nhỏ chừng nào thì
từ lực mạnh chừng nấy.
Nay
nhà khoa học phát hiện nhỏ nhất là quang tử, tức là tổ
chức thành ánh sáng, nên tốc độ ánh sáng cao nhất, mỗi
giây đi 300.000 cây số. Nhưng họ còn nói vật chất có thể
biến thành năng lượng (không phải vật chất), năng lượng
cũng có thể biến thành vật chất, nó chuyển đổi lẫn nhau.
Mặc dầu, nó chuyển đổi lẫn nhau, nhưng nó phải có vật
chất mới chuyển đổi thành năng lượng được, chứ không
phải nó lìa được vật chất.
Lực
học của Thích Ca Mâu Ni khỏi cần vật chất tức lìa vật
chất là năng lượng tâm của mọi người. Nhà thiên văn dùng
tốc độ ánh sáng để tính khoảng cách của không gian, như
ánh sáng đi một năm đến thì khoảng cách đó gọi là một
quang niên, ánh sáng đi 10 năm đến thì khoảng cách đó gọi
là 10 quang niên, mà ánh sáng đi 10 năm đến thì tâm mình chỉ
1 niệm đến, ánh sáng đi 1 triệu năm đến thì tâm mình cũng
1 niệm đến.
Tại
sao? Vì nó không phải vật chất, không bị không gian và thời
gian hạn chế. Nó luôn luôn khắp không gian và khắp thời
gian. Nhưng người ta không tin, kể cả nhà khoa học cũng không
tin.
Nguồn
gốc của Phật pháp:
Thân
thể của Trí Bát Nhã, có người gọi là Phật tánh, Tâm Chân
như, Diệu tâm. Bản thể của nó là Tri, mà dụng của nó
cũng là Tri. Tất cả mọi người trên thế gian, tất cả chúng
sanh cho đến vạn vật trong vũ trụ đều là vật sở tri của
nó. Nhưng mà tất cả người, tất cả chư Phật đều chẳng
thể biết được nó, vì nó chẳng thuộc về sở tri. Cho nên
nó vĩnh viễn không thể bị ai phát hiện được (luôn cả
Phật), vì nếu nó đã bị phát hiện thì thành sở tri rồi.
Điều
này ở trên thế gian thật là kỳ diệu lại thêm kỳ diệu.
Nhưng theo lý toán học mà suy luận thì cũng chẳng phải kỳ
diệu.