-
Phụ
Lục 5
-
Lời
Giảng Ngắn Gọn Về Đại Thủ Ấn
Bản
văn dưới đây về Đại Thủ Ấn — thường gọi là Mahamudra,
còn gọi là Phyag-gGya Chhen-Po — do vị đạo sư Ấn Độ Maitripa
soạn thảo, và được truyền dạy trực tiếp cho Marpa, và
từ Marpa truyền dạy cho Milarepa. Pháp môn Đại Thủ Ấn mặc
dù được trao truyền và gắn liền với phái Hồng Mạo (Kargyudpa),
nhưng vẫn được học và tu tập bởi chư tăng các tông phái
khác của Phật Giáo Tây Tạng. Chữ "Đại Thủ Ấn" có nhiều
nghĩa, có khi còn gọi là Đại Biểu Tượng, nhưng nghĩa trực
tiếp nhất chính là một trực nhận về thế giới và từ
đây học nhân sử dụng như một bảo ấn lớn để hợp nhất
niết bàn và sinh tử — ngắn gọn, đó là trực nhận được
Tánh Bất Nhị của vạn pháp. Đại Thủ Ấn, trong nghĩa trên,
chính là một pháp đốn ngộ. Bản Việt dịch của Nguyên
Giác dựa theo bản Anh dịch của James Low trong cuốn Simply Being:
Texts in the Dzogchen Tradition, nhà xuất bản Vajra Press, London,
1998.
Thánh
Sư Marpa, 1012-1097, là một đạo sư nổi tiếng miền Nam Tây
Tạng, còn được gọi là Dịch Giả. Với ba chuyến đi Ấn
Độ và bốn chuyến đi Nepal, ngài mang về Tây Tạng nhiều
giáo pháp, trong đó nổi bật nhất là Đại Thủ Ấn. Marpa
là thầy của Milarepa. Marpa còn được nhìn như là điển hình
lý tưởng của trường hợp người tu có vợ con, vừa thành
tựu Thánh Pháp vừa lo những trách nhiệm trần gian. Lần đầu
tới Ấn Độ, Marpa gặp Thánh Sư Naropa và theo học suốt 16
năm. Theo lịch sử, Marpa theo học tất cả là 108 vị Thầy,
nhưng hai vị Thầy chính yếu là Naropa và Maitripa. Trở về
Tây Tạng, Marpa dịch các bản văn mang về ra tiếng Tây Tạng,
sống đời của một nông dân và có nhiều con với vợ là
Dagmema. Lần thứ nhì từ Ấn về, Marpa nhận Milarepa (1025-11235)
làm học trò sau khi đã thử thách thật gian nan người đệ
tử mới này. Lần thứ ba đi Ấn, Marpa gặp Thánh Sư Atisha
(980/90-1055) và gặp lại bổn sư Naropa lần cuối. Marpa đã
tiên tri ra việc tông phái Hồng Mạo sẽ phát triển mạnh
mẽ ở Tây Tạng, trong đó Milarepa đóng một vai trò rất lớn.
Các sách về cuộc đời Milarepa đã được dịch ra Việt ngữ
nhiều lần. Bản văn dưới đây được ghi là của Ngài Maitripa
truyền trực tiếp cho Marpa.
Nội
dung bản văn rất ngắn gọn, yêu cầu học nhân trực nhận
Tánh
Bất Nhị của vạn pháp và từ đây xa lìa mọi nỗ lực,
cứ tự nhiên để tâm an trụ trong cái nhìn Bất Nhị này.
Khi dòng sông niệm đứng lại, thì ý nghĩa hiện ra. Và tất
cả mọi hành động và nỗ lực thiền định đều không cần
thiết, bởi vì Tánh Thực của vạn pháp lúc nào cũng là Vô
Tự Tánh.
(BẢN
VĂN BẮT ĐẦU)
Hãy
đảnh lễ trong tâm thức hoan lạc hoàn toàn, ta sẽ nói cho
ngươi về dấu ấn lớn.
Tất
cả những gì khả thể chỉ thực sự là tâm của ngươi —
đi tìm sự thực ngoài tâm chỉ là việc làm của tri thức
rối loạn. Tất cả những hiện tướng đều chủ yếu trống
rỗng như một giấc mơ. Và tâm cũng chỉ là chuyển động
của trí nhớ và ý tưởng. Với không tự tánh nào trong đó,
nó thì như năng lực của ngọn gió; và trống rỗng trong cốt
tủy, nó thì hệt như hư không.
Tất
cả những gì khả thể đều cư trú trong bình đẳng, hệt
như hư không — như vậy, ta nói về dấu ấn lớn.
Tự
tánh của ngươi không có thể phô diễn được, và cũng vậy
tánh thật của tâm không hề rời xa hay chuyển đổi trạng
thái thật của dấu ấn lớn. Nếu ngươi có thể chứng ngộ
chân thật điều này, thì tất cả mọi hiện tướng đều
trở thành dấu ấn lớn. Đây là trạng thái tự nhiên bao
trùm toàn khắp.
Hãy
thoải mái trong trạng thái tự nhiên không nỗ lực của ngươi.
Đây là trạng thái tự nhiên vô niệm. Thiền pháp này tự
cư trú trong chính nó, không cần tìm kiếm gì khác. Loại Thiền
pháp nào mà đi tìm kiếm thì chỉ là việc làm của tri thức
rối loạn. Y hệt như hư không hay một ảo ảnh huyễn thuật,
khi vắng bặt cả thiền định lẫn phi thiền định thì làm
sao ngươi nói về chia cách hay không chia cách?
Với
những Thiền giả nào có hiểu biết này, tất cả mọi hành
động đức hạnh và tội lỗi đều được giải thoát bởi
trực nhận về thực tại này. Tất cả mọi tổn thương tinh
thần đều trở thành việc nhận biết thuần khiết, lớn
lao, và tới như người bạn của Thiền giả, y hệt như ngọn
lửa cháy lan suốt cánh rừng. Vậy thì làm sao chúng ta nói
gì về chuyện ra đi hay ở lại?
Bất
kể là ngươi có ổn định tâm ngươi bao nhiêu tại một nơi
vắng lặng, nếu ngươi không trực nhận chân lý này, ngươi
sẽ không giải thoát được ra khỏi các trạng thái chỉ là
manh mún đó. Nhưng nếu ngươi kinh nghiệm sự thực này, rồi
thì có gì có thể ràng buộc được ngươi?
Khi
ngươi an trụ một cách không chao động trong trạng thái này,
sẽ không còn cần tới bất cứ loại thiền định được
cấu trúc nào cho thân và khẩu của ngươi. Cho dù ngươi có
vào được trong cái gọi là hợp nhất chân thật hay không,
sẽ không còn cần tới nỗ lực thiền định liên hệ tới
các pháp đối trị. Không cố tâm muốn thành tựu bất kỳ
chi cả, bất cứ những gì khởi lên sẽ được trực nhận
là không ngay trong tự tánh. Tất cả những hiện tướng đang
tự giải thoát trong chiều kích mở rộng này, và tất cả
các niệm đều tự giải thoát ở trong (và tự thân như là)
cái nhận biết thuần khiết lớn lao. Đây là tính bình đẳng
hoàn toàn bất nhị của trạng thái tự nhiên. Y hệt như dòng
chảy của một sông lớn, ý nghĩa chân thực sẽ hiện ra với
ngươi bất cứ khi nào ngươi đứng lại. Đây là trạng thái
của cảnh giới Phật đang diễn tiến, cái hạnh phúc lớn
lao được giải thoát khỏi tất cả các pháp sinh tử.
Tất
cả các hiện tượng tự chúng đều trống rỗng một cách
tự nhiên, và cái trí tuệ nhận diện cái rỗng không đó
sẽ được thanh tịnh ngay trong vị trí riêng của nó. Xa lìa
tất cả những kiến giải hóa, sẽ không còn liên hệ nào
tới các hoạt động tâm thức nữa. Đây là con đường của
tất cả các vị Phật.
Đối
với những người thật sự may mắn, ta soạn ra bản văn này
để tóm lược tất cả các lời dạy của ta. Nhờ vào đây,
nguyện cho tất cả chúng sinh an trụ trong dấu ấn lớn.
Tới
đây là hết bài giảng của Maitripa về Đại Thủ Ấn.
Bản
văn được truyền trực tiếp từ Thánh Sư đó, và được
dịch sang tiếng Tây Tạng bởi dịch giả Tây Tạng Marpa Chokyi
Lodro