-
Phụ
Lục 4
-
Cốt
Tủy Đại Toàn Thiện
Dưới
đây là lược dịch cuốn The Four-Themed Precious Garland — bản
Anh dịch của cuốn Chos-bzhi rin-chen phreng-ba của Tổ Sư Longchen
Rabjampa Drime Wozer (1308-1363), một tác phẩm quan trọng từ thế
kỷ 14 ghi lại pháp môn Đại Toàn Thiện (Dzogchen). Người
dịch là Tiến Sĩ Alexander Berzin, thực hiện với tham khảo
từ nhiều vị sư Tây Tạng. Bản Việt ngữ nơi đây là do
Nguyên Giác lược dịch và đưa vào thêm một ít chú thích
(có ghi LDG).
Thư
Viện Văn Khố và Tác Phẩm Tây Tạng (Library of Tibetan Works
and Archives, viết tắt là LTWA) của chính phủ Tây Tạng lưu
vong đã trân trọng giới thiệu cuốn The Four-Themed Precious
Garland như là đã khai mở ra một trong những truyền thống
lớn của Tây Tạng cho học nhân Tây Phương, và đã chọn
quyển này để in vào tuyển tập của Longchen Rabjampa.
Đại
Toàn Thiện và Đại Thủ Ấn (Mahamudra) là hai pháp môn Thiền
Đốn Ngộ của Tây Tạng. Trong khi Đại Thủ Ấn lưu truyền
từ dòng mũ đỏ Kagyu (Hồng Mạo Phái), thì Đại Toàn Thiện
được lưu truyền từ dòng Nyingma (Cổ Mật) và hiện cả
hai pháp môn đốn siêu đốn nhập này đều được phổ biến
mạnh mẽ nơi phương Tây.
Ngài
Longchen Rabjampa cùng với Sakya Pandita và Je Tsongkhapa từng được
công nhận như là ba hóa thân chính của Đức Văn Thù Bồ
Tát để giáo hóa vùng Trung Tây Tạng. Thời tuổi trẻ, Ngài
Longchen được học theo truyền thống Nyingma từ gia đình,
sau đó cũng theo học từ nhiều vị Thầy khác thuộc nhiều
tông phái khác, thí dụ như dòng Kadam, Sakya và Kagyu. Ngài đã
viết nhiều cuốn luận, đi giáo hóa nhiều nơi và đã ở
thời gian dài tại Bhutan để đặt nền móng Phật Pháp nơi
đây.
Nhan
đề sách có nghĩa là Vòng Hoa Báu Bốn Đề Mục. Các phần
đầu là khuyến tấn học nhân, trình bày cách giải trừ chướng
ngại bằng các pháp Đại Thừa và Kim Cang Thừa, sau cùng mới
nói về pháp trực nhập Đại Toàn Thiện. Bản văn tóm lược
như sau.
1
HƯỚNG TÂM VỀ VỚI PHÁP
Bất
kỳ ai muốn vượt qua đại dương vô tận của luân hồi trước
nhất phải nghĩ đến việc tận lực trong kiếp này để đạt
bình an và hạnh phúc, đó là hiện tướng của giải thoát.
Thân người, khó có và lại dễ mất, là chiếc bè để học
hỏi và tu tập Giáo Pháp. Có thân người, nếu không tận
lực, ngươi sẽ không bao giờ thoát được đại dương của
huyễn hóa. Ngươi sẽ không bao giờ ngưng được luân hồi
đầy những khổ đau. Ngươi sẽ trôi dạt trong đại dương
đáng sợ, không chịu đựng nổi nơi những đợt sóng ảo
vọng đẩy tới cảnh giới cao nhất, những bọt sóng của
bệnh và lão tan hợp khắp nơi và không có thể thấy được
lúc nào ngưng được dòng chảy của sinh và tử.
Nhưng
bất kỳ ai nghe được giáo pháp sẽ có thể ngưng được
dòng chảy sinh và tử, và sẽ không bao giờ bị cách lìa khỏi
đại niết bàn an lạc. Do vậy, với chiếc bè quý giá của
Pháp Tối Thượng Thừa, hãy tận lực vượt đại dương của
ba cõi ảo hóa.
Nếu
ngươi không tu tập để giải thoát bây giờ, trong tương lai
ngươi sẽ không bao giờ ngay cả nghe đến tên gọi "tái sinh
may mắn." Xuyên qua nhiều kiếp bất hạnh vô tận, kiếp này
sau kiếp kia, ngươi sẽ không có được pháp môn để giải
thoát. Do vậy, bây giờ ngươi có thân người, hãy chân thành
tu tập tận lực. Với pháp môn này, ngươi sẽ có thể giải
thoát cho cả mình lẫn người khác.
Ngay
cả nếu ngươi đã đạt tự do và thần lực, sẽ không bao
giờ có sự an toàn tâm thức. Tất cả các pháp đều bất
an, thay đổi và không có tự tánh. Vì tất cả các pháp đều
vô thường và tan rã, ngươi nên nghĩ đến chuyện ngươi sẽ
chết nhanh chóng.
Điều
đó cũng y hệt như khắp cả thế giới quanh ngươi. Nó cũng
sẽ tan rã bởi bảy kiếp hỏa, một kiếp lụt và gió. Sẽ
không còn một đầu sợi tóc nào an ổn. Tất cả sẽ rồi
thành trống rỗng; chỉ còn là hư không. Những chúng sinh sống
trong đó — những chúng sinh vô thường, đó là chư thiên,
ma vương, người, thú, ngạ quỷ và chúng sinh dưới địa
ngục — bất kể chúng sinh nào, khi thời gian tới, sẽ phải
chìm đắm vào biển chết chóc, trung ấm và đầu thai. Những
năm, những tháng, những ngày và các chia chẻ thời gian đều
là khoảng khắc, vô thường; chúng tan rã và liên tục trôi
qua. Khi có những chuyện buồn như bốn mùa thay đổi, hãy
nghĩ tới sinh mệnh của ngươi cũng vô thường.
Cũng
sẽ không có an ổn tâm thức nào hết. Chẳng bao lâu nữa,
ngươi cũng sẽ chết. Do vậy, kể từ hôm nay, ngươi phải
nghĩ rằng, "Hoàn toàn không có gì chắc chắn những gì sẽ
xảy ra, ngày mai hay là lúc khi mà thọ mạng của mình chấm
dứt."
Đau
khổ của sự sinh còn đáng sợ hơn đau khổ của sự tử.
Sẽ không bao giờ có hạnh phúc nào bất kể nơi nào ngươi
sinh ra, vì bản chất của luân hồi y hệt như ngọn lửa phựt
lên. Do vậy, hãy lo tu giải thoát ngay từ bây giờ.
Chúng
sinh dưới địa ngục bị dày xé bởi nóng và lạnh; ngạ
quỷ thì đói và khát; loài thú thì bị ăn nuốt lẫn nhau,
ngu ngốc và vô minh; loài người thì đau khổ vì tám điều
bất toàn (sinh, lão, bệnh, tử, xa lìa điều mình thích, gặp
điều không thích, không đạt được những điều mong muốn
và tìm kiếm, và các uẩn nhơ uế — vì nghiệp lực và ảo
vọng). Ma vương đau khổ vì tranh chấp và chiến tranh; chư
thiên đau khổ vì sự chết, chuyển thân trung ấm và rơi vào
tái sinh hàng thấp hơn. Sau khi thần thức của chư thiên rời
cõi trời, chúng có thể rơi vào lửa địa ngục lần nữa.
Hãy nghĩ như vậy, hãy tận lực xa lìa các cõi huyễn hóa.
Hiện
tướng của kiếp này y hệt như một giấc mơ trước khi ngươi
thức dậy. Chúng biến đổi và vô thường. Hãy tận lực
tu tập ngay bây giờ.
Tham
vọng thì như độc dược, vũ khí hay lửa. Một khi tham vọng
khởi, nỗi đau của nó thì thường trực và ngươi sẽ không
bao giờ có cơ hội hạnh phúc. Tranh chấp với mọi người,
vọng tưởng của ngươi chỉ tăng nhiều thêm. Tâm của ngươi
lang thang đủ chuyện tư lường và nó đe dọa thân ngươi
và thọ mạng ngươi.
Nếu
ngươi muốn vào pháp môn giải thoát, hãy giảm các tham vọng
và phải tự thấy là đủ.
Kinh
nói rằng, nếu ngươi cạn hết mọi tham vọng, ngươi là một
vị Thánh chân thật, và nếu tham vọng của ngươi ít, ngươi
gần với Thánh vị. Do vậy, hãy đi theo bước chân của các
vị Thánh trong quá khứ. Luôn luôn thấy mình đã đầy đủ
và có thật ít vật sở hữu.
Giao
du với người cũng gây những phiền não vô tận. Chỉ thêm
những hoạt động và lãng tâm vô ích. Giận dữ, tranh cãi
và tranh chấp tăng thêm, và những thu hút và xô đẩy cũng
khởi dậy. Ngươi luôn luôn bị nhiễm thói xấu người khác
và điều này chẳng ích gì. Bất kể gần gũi thế nào với
người khác, thí dụ như bạn thân của ngươi, cuối cùng
ngươi cũng phải xa lìa. Do vậy, hãy bỏ hết mọi liên hệ
mà ngươi tùy thuộc vào đệ tử, bạn hữu hay thân nhân.
Hãy tận lực từ hôm nay về sống trong nơi vắng lặng để
tu tập pháp giải thoát.
Chư
Thánh trong quá khứ nói rằng sống trong nơi vắng lặng họ
đã tìm gặp bình nước cam lồ của thắng pháp. Do vậy, ngươi
hãy nên sống một mình trong một khu rừng vắng để đạt
được bình an này. (Bản văn này viết từ thế kỷ 14 tại
Tây Tạng, nên đoạn này không thích hợp với thế kỷ 20,
khi thật khó tìm được một khu rừng vắng thích hợp.)
Sống
trong nơi vắng lặng đã được chư Phật tán thán. Không ai
quấy nhiễu ngươi, định nhất tâm sẽ tăng thêm kiên cố.
Với lợi ích của nếp sống này không có thể mô tả hết
được, hãy tu tập suốt đời ngươi trong nơi vắng lặng
hoàn toàn, đơn độc trong rừng.
Xin
nguyện cho mưa Pháp dập tắt mọi vọng tưởng. Xin nguyện
cho mưa Pháp làm đầy hồ sen công đức của định nhất tâm.
Xin nguyện cho mưa Pháp mở rộng thành tựu của Tịnh Độ.
2
TU TẬP PHÁP GIẢI THOÁT
Hãy
giả thiết rằng, nhờ lòng tin, ngươi vào pháp môn tối thắng
này, và bây giờ ngươi mong muốn đi trọn con đường giải
thoát. Điều ngươi phải làm là thực sự tu tập pháp môn
này như một cách sống. Đó là điều chủ yếu để điều
tâm.
Có
những người đã vào giáo pháp của Chư Phật như trên và
đã khởi đầu bằng lắng nghe (văn), suy nghĩ (tư) và thiền
định (tu). Nhưng một số vẫn chưa an ổn: họ đã khởi tâm
sai. Một số theo đuổi những con đường sai lầm hoặc thấp
kém hay những con đường lạc đạo. Một số lại có nhiều
tham vọng, và một số bận tâm với những lo lắng cho đời
này. Tất cả những sai lầm như vậy, trái nghịch với giáo
pháp, khởi lên vì không chịu tu tập giáo pháp như một cách
sống. Những sai lầm đến từ kiếp này và các kiếp tương
lai thì không thể đo lường nổi. Bất kỳ ai bị vọng tưởng
đánh lừa như vậy rồi sẽ ân hận khi chết và sẽ kinh hoàng
lo lắng trong thân trung ấm. Hắn sẽ sinh vào cảnh giới thấp
hơn
trong tương lai và không bao giờ có cơ hội giải thoát khỏi
luân hồi. Do vậy, hãy lấy việc tu tập pháp môn giải thoát
như một cách sống.
Tu
tập giáo pháp như một cách sống, trước tiên, tùy thuộc
vào thầy của ngươi. Điều quan trọng là phải dựa vào một
đạo sư chân thật. Bất kỳ phẩm chất tốt nào đều sẽ
đến từ đây.
Đạo
sư phải là một người có từ tâm và phương tiện thiện
xảo, người sống trong tâm bình lặng, tự chế và kiên nhẫn.
Lời nguyện của vị thầy này phải toàn triệt và tối thắng.
Vị thầy này phải từng học nhiều giáo pháp và đã tu tập
chúng đúng đắn. Những làn sóng cảm hứng từ vị thầy
này phải là vô lượng, ảnh hưởng tự động tới sự xuất
hiện của những kẻ khác. Vị thầy phải không bận tâm gì
tới đời này và phải thanh tịnh như hư không. Người như
vậy, người làm cho cuộc đời của bất kỳ ai liên hệ tới
đều trở nên có ý nghĩa và dẫn học nhân lên con đường
giải thóa, là một hiện tướng của Chư Phật được hóa
thân trong thời mạt pháp. Do vậy, hãy tận tụy hiến mình
cho vị thầy này với trọn tôn kính.
Lợi
ích của điều này thì vô lượng. Ngươi sẽ trở thành dị
ứng với huyễn hóa luân hồi và sẽ xa lìa nó. Do đó, những
suy nghĩ của người cho đời này sẽ giảm đi. Trong tâm, ngươi
sẽ xua đi hết mọi bận tâm cho đời này, và những nắm
giữ tin thật vào hiện tướng ảo hóa sẽ tan rã. Ngươi sẽ
tự nhiên tự chế và sẽ lắng nghe, suy nghĩ và tu tập giáo
pháp. Ngươi sẽ đạt nhiều phẩm chất tốt, thí dụ như
lòng tin. Kiếp này của ngươi sẽ có ý nghĩa và những kiếp
tương lai của ngươi sẽ đạt kết quả. Do vậy, hãy tự
dâng hiến cho một vị thánh sư.
Thêm
nữa, ngươi không bao giờ nên làm sai trái gì với thân, khẩu
và ý của ngươi. Hãy như một bệnh nhân đối với bác sĩ,
như một thương gia du hành ngoài biển đối với người hoa
tiêu, như một hành khách đối với người chèo thuyền, như
một vị khách với người cận vệ. Hãy luôn luôn chăm sóc
tôn kính vị thầy. Kinh dạy rằng, nếu ngươi có thái độ
bất kính hay cách nhìn sai trái về vị thánh sư, ngươi sẽ
tái sinh trong địa ngục nhiều kiếp. Do vậy, nếu có khi nào
lỡ bất kính, hãy thú tội và sám hối.
Hãy
tự hiến thân mình trong cách này cho một vị đạo sư và
điều tâm bằng cách lắng nghe, suy nghĩ và thiền định trong
giáo pháp được dạy. Rồi thì hãy chuyển hóa tất cả những
công đức nào có được chỉ hồi hướng về khát vọng giải
thoát. Đó là lời dạy khẩu truyền về cách tu tập giáo
pháp như một cách sống.
Bất
cứ khi nào ngươi lắng nghe giáo pháp, hãy suy ngẫm và đọc
tụng, hãy tận lực như vậy để giải thoát. Bất cứ khi
nào ngươi viết, đọc, học thuộc lòng hay giảng dạy, hãy
hồi hướng tất cả cho giải thoát. Tương tự, trong khi thiền
định, lý luận và xử thế, hãy tận lực để xa lìa thế
gian huyễn hóa bằng cách luôn luôn hướng tâm về giải thoát.
Không có gì cao quý hơn những lời dạy khẩu truyền này.
Ăn,
ngủ, đi bộ, ngồi, nói, suy nghĩ và mọi thứ, bất cứ hoạt
động nào ngươi làm, đừng bao giờ để tâm ngươi chệch
ra khỏi ý nguyện giải thoát. Hãy coi thường và lìa bỏ thế
gian huyễn hóa, và cứ vậy thuần thục tâm ngươi. Đó là
điểm cốt tủy để tu tập pháp môn này như một cách sống.
Thêm
nữa, đặc biệt là để đi trên con đường Đại Thừa, ngươi
hãy hồi hướng bất kỳ công đức nào ngươi làm về cho
người khác. Để làm lợi ích tất cả chúng sinh, ngươi hãy
toàn tâm tu dưỡng lòng từ bi, khởi lên từ bồ đề tâm,
luôn luôn hướng tâm về giải thoát và giúp đỡ người khác,
dâng hiến công hạnh của ngươi, và vui với công đức của
mình và người khác. Ngươi hãy thấy rằng trong vô lượng
kiếp về trước, tất cả chúng sinh đã từng là mẹ, là
cha, là thân quyến và bạn thân của ngươi. Đó cũng là lý
do ngươi phải giúp đỡ các chúng sinh.
Chính
ngươi phải khởi tâm nguyện giải thoát vì lợi ích của
các chúng sinh. Rồi thì tu tập vì lợi ích của tất cả chúng
sinh. Bởi những công đức của ngươi, những người khác
sẽ hạnh phúc. Ngươi nên tu dưỡng tâm nguyện giải thoát
bằng lòng từ bi vô lượng với ý nghĩ rằng, "Nguyện cho
con chịu tất cả khổ đau của chúng sinh, và nguyện cho tất
cả công đức của con lợi ích tất cả chúng sinh. Xin nguyện
cho tất cả chúng sinh thành tựu Phật quả."
Bất
kỳ công đức nào ngươi làm hãy khởi lên vì ý nguyện giải
thoát, và khi làm thì không vì bất kỳ lợi ích vật chất
nào, và khi kết thúc hãy hồi hướng các công đức đó cho
giải thoát. Thêm nữa, ngươi phải hoàn toàn tự thanh tẩy
các vọng tưởng về tánh thật của ba cảnh giới—thứ nhất,
là mục tiêu của pháp môn đang tu tập; thứ nhì, là pháp
môn đang tu tập; và thứ ba, là người đang tu tập. Y hệt
như ảo giác, chúng chỉ là những hiện tướng dựa trên không
có gì là thật, hệt như các huyễn hóa ảo thuật. Cho nên,
thanh tẩy trong sạch bản chất của ba cảnh trên, ngươi hãy
hướng mọi công đức để làm lợi ích người khác.
Phải
thâm tín vào Phật, Pháp, Tăng, và vào các mục tiêu tu tập
thiện pháp—trong tất cả các pháp trên, không ngoại lệ.
Từ chỗ tận lực làm lợi cho mình và người, rồi thì cả
ngươi lẫn người khác đều cùng sẽ được tán thán, tôn
trọng và kính ngưỡng vượt xa tất cả mọi khuôn mẫu.
Hân
hưởng hạnh phúc là việc thiền định về niềm vui trên
tất cả những công đức chư Phật, chư Bồ Tát và tất cả
chúng sinh. Đó là phương pháp tối thắng để chuyển hóa
các công đức vô lượng trở thành cái Tánh Biết vô nhiễm
bất khả tư lường.
Ngươi
hãy đọc các bài kinh thanh tịnh để làm lợi chúng sinh. Nơi
đây, lời dạy khẩu truyền về việc thanh tịnh hóa các mục
tiêu tu tập cần phải được chiêm nghiệm.
Đừng
bao giờ bận tâm về mục tiêu thế gian dù trong khoảnh khắc.
Hãy làm việc cho người khác, và thực hiện thiện pháp bằng
cả thân, khẩu, ý. Hãy điều tâm như vậy để khơi dậy
khát vọng chứng ngộ, và đó là cách biến việc tu tập pháp
môn này như là một con đường tới giải thoát.
Xin
nguyện cho tiếng trống Pháp khơi lên những ý nghĩa thâm sâu,
đánh thức tất cả chúng hữu tình ra khỏi ba cõi độc và
xa lìa giấc ngủ của vô minh.
3
ĐOẠN TRƯ+` CÁC CHƯỚNG NGẠI
Thêm
nữa, có những phương pháp thông thường, đặc biệt và tối
thắng để đoạn trừ chướng ngại.
Thứ
nhất là Pháp Đại Thừa. Ngươi hãy tu tập bốn tâm vô lượng
(từ vô lượng, bi vô lượng, hỉ vô lượng và xả vô lượng).
Với cầu nguyện và đam mê, ngươi xóa bỏ các chướng ngại
bằng cách hy sinh tận lực cho người khác. Với bồ đề tâm,
trong đó bản chất là tánh không rỗng rang và từ bi, ngươi
sẽ có thể thành tựu hoàn toàn các mục tiêu của ngươi
và người khác.
Để
làm thanh tịnh trong sạch các pháp, ngươi phải thiền định
về 37 pháp trợ đạo.
Thêm
nữa, ngươi phải chứng ngộ cái nhìn đúng đắn, trong sạch
về 16 pháp Không (trong tận cùng vẫn chỉ là một Tánh Không),
và thành tựu sáu pháp ba la mật (Bố thí ba la mật, trì giới
ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền
định ba la mật, và trí huệ ba la mật). Và, đặc biệt là
với trí huệ ba la mật, ngươi phải chứng ngộ Ngã Không
và Pháp Không (tức là cái vô tự tánh của ngã và pháp).
Tu tập các pháp trên như đối trị, ngươi sẽ thanh tịnh
chính ngươi ra khỏi các vọng tưởng. Đó là con đường của
chư vị Bồ Tát.
Mặc
dù vạn pháp hiện hữu như huyễn hóa, như chiêm bao, ngươi
hãy tu tập đúng đắn trên đường giải thoát, tránh các
pháp dữ, và làm các pháp lành.
Bởi
vì thực tánh tối hậu thì vô sinh và vô nhiễm, nó thì xa
lìa mọi phân biệt nhị nguyên như là luân hồi và niết bàn.
Nó thì xa lìa cả những thêu dệt nghĩ tưởng của tâm chúng
sinh.
Đây
là ý nghĩa của hai sự thật (nhị đế). Con đường tìm cội
nguồn lý nhân duyên (tùy thuộc lẫn nhau) là pháp Đại Thừa.
Con
đường Đại Thừa của các mật pháp thì có ngoại mật và
nội mật. Đây là pháp tối thắng bất khả tư nghì với
cách hợp nhất giữa các giai đoạn tu tập và thành tựu,
nhờ đó ngươi sẽ đoạn trừ các chướng ngại qua nhiều
giai đoạn.
Trong
ba pháp ngoại mật, phần nhấn mạnh chính là việc thanh tịnh
hóa. Trong các pháp đối trị nói trên, ngươi hãy buông bỏ
và rồi tập pháp nào thấy là cần thiết, và do đây sẽ
loại trừ chướng ngại. (Chú thích của Nguyên Giác: Học
nhân có thể không cần tu tập ba pháp ngoại mật — kriya,
chara, và yoga — bởi vì nhiều vị Thầy thế kỷ 20, thí dụ
như Ngài Namkhai Norbu Rinpoche, khi dạy pháp Đại Toàn Thiện
cho Phật Tử Tây Phương đã bỏ hẳn các mật pháp phức tạp
này, mà chỉ đưa thẳng vào Tánh của tâm để tu, y hệt như
Ngài Huệ Năng của Thiền Trung Hoa.)
Tương
tự với các pháp nội mật (mahayoga, anuyoga, và atiyoga), xuyên
qua trí huệ vô nhiễm, những pháp này rồi cũng nên buông
bỏ vì chỉ là phương tiện.
Vạn
pháp xuất hiện tự nhiên trên mạn đà la (vòng tròn tượng
trưng cho vũ trụ, được vẽ lên mỗi khi cần thực hiện
một mật pháp — chư cổ đức còn gọi là đàn pháp), nơi
đó là Tánh Phật, và chỉ xuất hiện qua tâm của ngươi.
Chúng
(vạn pháp) là những huyễn hóa chướng ngại, và không thực
hữu. Vạn pháp trong tự tánh là không.
Như
vậy, trong giai đoạn tu tập, tất cả những gì xuất hiện
đều được hợp nhất trong một vòng mạn đà la. Thân ngươi
trở thành thân Phật, lời ngươi trở thành thần chú chư
Phật, và ý ngươi là trí huệ vô nhiễm. Trong cách này, tất
cả mọi hiện tướng ảo hóa đều được xem như là cảnh
Phật.
Xuyên
qua giai đoạn thành tựu, ngươi vào cảnh giới bất khả tư
nghì của ánh sáng trong suốt (clear light, có thể gọi là Phật
quang, hay thanh tịnh quang), trong đó vạn pháp đều ở trong
tánh không chân thực của nó. Tới đây, tâm ngươi đã được
điều phục thuần thục.
Cảnh
giới của tánh không và trí huệ vô nhiễm trở thành một.
Sự hợp nhất bất khả phân ly này là con đường của Đại
Thủ Ấn (Mahamudra). Đó là pháp Kim Cang Thừa của các mật
pháp.
(Sau
khi dẫn giải về các pháp môn Đại Thừa và Kim Cang Thừa,
tới đây thì Ngài Longchenpa mới nói về pháp môn đốn ngộ
Đại Toàn Thiện.)
Pháp
môn tối thượng thừa Đại Toàn Thiện bí mật có chức năng
đưa ngươi thẳng vào cảnh giới của tự nhiên nhi nhiên.
Cảnh giới này, đó là nền tảng của vạn pháp, thì bất
động. Tất cả những công đức thiện pháp xuất hiện trong
nó một cách tự nhiên như là mặt trời, mặt trăng, tinh tú
và các vì sao trên hư không. Nó không cần được tìm kiếm,
bởi vì nó tự nhiên hiện hữu từ vô lượng kiếp. Không
cần có một cố gắng hay nỗ lực nào.
Pháp
giới mạn đà la của thanh tịnh quang thì vô điều kiện.
Nó chính là Pháp thân tự thể, là cái tâm bao trùm khắp pháp
giới của chư Phật. Trực ngộ nó chính là cái nhìn tối
thượng của thực tại.
Trên
cảnh giới thanh tịnh toàn chân này có những đám mây chướng
ngại. Đó là những hiện tướng ảo hóa khởi lên từ tâm
chúng sinh. Xuyên qua những hiện tướng, dựa trên những hư
ảo, ba cõi và sáu loài chúng sinh liên tục hóa hiện.
Bất
cứ khi nào, bất cứ những gì xuất hiện, bất kể đó là
những gì, nó thì không thực hữu trong tự tánh. Y hệt như
mây trên trời, những hiện tướng đến rồi đi. Do vậy,
luân hồi huyễn hóa chỉ là lượng định quá lời. Trong tánh
thực, nó tan lìa rơi rụng hết.
Mặc
dù không thực hữu, vạn pháp vẫn xuất hiện. Tuy nhiên, những
pháp này vẫn là không trong tự tánh. Chúng chỉ như là chiêm
bao. Chúng không có nền tảng, không có hậu thuẫn, không có
khởi đầu, không chặng giữa, không chặng cuối. Ngươi phải
chứng ngộ rằng từ thuở xa vô lượng kiếp, vạn pháp trong
tự tánh là thanh tịnh.
Do
vậy, bất kể những hiện tướng ảo hóa nào, những chúng
sinh nào, không gian hay bất kỳ thứ gì—đều không có vật
nào ngoài tâm để nắm giữ. Chúng chỉ như là trò huyễn
thuật của nhà huyễn sư. Thêm nữa, cũng cùng một cách như
vậy, không hề có tâm nào ở trong để nắm giữ bất kỳ
thứ gì. Tất cả đều thanh tịnh vô nhiễm, y hệt như hư
không. Khi cả tâm và vật đều không thực hữu, luân hồi
huyễn hóa chưa bao giờ là thực hữu. Bằng cách chứng ngộ
rằng đó là hiện tướng ảo hóa và trong tự tánh thì không
thực hữu, ngươi sẽ được giải thoát.
Tất
cả các pháp được buông bỏ hay nắm giữ, các nhân và quả
đều là hiện tướng. Bởi vì chúng tự thanh tịnh vô nhiễm,
ngươi phải chứng ngộ rằng thực tánh tối hậu thì vượt
ra ngoài luật nhân quả.