|
.
VÀI CHÚ GIẢI
VỀ THIỀN
ĐỐN NGỘ
Tác
giả: Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Nhà
xuất bản: Thiện Tri Thức 2001
Hầu
hết các bài trong này đã được in trên báo cuối thập niên
1980s, in thành sách lần đầu năm 1990 bởi nhà xuất bản Văn
Nghệ, California. Sách này được sửa chữa, cắt bớt, thêm
vào và thay đổi thứ tự chương mục để dùng cho ấn bản
online năm 1999. Nhuận sắc thêm vào năm 2001.Tác giả không
giữ tác quyền sách này. Bất kỳ ai cũng có quyền sao chép,
in ấn, phổ biến bằng mọi phương tiện khả dụng.
MỤC
LỤC
Lời
Thưa
01-Thói
Nhà Tào Động
02-Ảnh
Trầm Hàn Thủy
03-Tạc
Dạ Nhất Chi Mai
04-Giải
Tín Tâm Minh
05-Phụ
Lục 1: Quy Củ Tọa Thiền
06-Phụ
Lục 2: Krishnamurti và Thiền Định
07-Phụ
Lục 3: Niệm Phật Toàn Thân
08-Phụ
Lục 4: Cốt Tủy Đại Toàn Thiện
09-Phụ
Lục 5: Lời Giảng Ngắn Gọn Về Đại Thủ Ấn
10-Phụ
Lục 6: Kho Tàng Các Bài Ca
11-Phụ
Lục 7:Cốt Tủy Đại Thủ Ấn
LỜI
THƯA
Nếu
trong lòng ta được vô tâm là Phật quá khứ,
Trong
lặng lẽ mà khởi tác dụng là Phật vị lai,
Tùy
cơ ứng vật là Phật hiện tại.
(Lời
Hương Hải Thiền Sư thị chúng)
Những
ngày còn ở Việt Nam, tôi có may mắn tham học ở dòng Thiền
Tây Tạng dưới sự chỉ dạy của Thiền Sư Trạm Nhiên Tịch
Chiếu. Tông phong dòng tôi vốn là nửa Tây Tạng nửa Lâm
Tế do vì Sư Ông vốn dòng Lâm Tế lại qua Tây Tạng tham học
rồi mới về khai sơn mở chùa. Nhưng tông chỉ tất cả các
dòng thuộc Tổ Sư Thiền (tức Thiền Đốn Ngộ) vẫn là một.
Có
nhiều cách để phân loại Thiền. Cách đơn giản dùng trong
sách này là, Thiền nhà Phật chia làm hai pháp chính, Như Lai
Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền do Phật giảng dạy
trong các kinh. Tổ Sư Thiền do Phật dạy riêng ngoài kinh điển,
không qua văn tự ngôn ngữ, dĩ tâm truyền tâm, được trao
truyền từ chư Tổ.
Như
Lai Thiền cũng được chia làm hai pháp chính, Thiền Tiểu Thừa
và Thiền Đại Thừa.
Thiền
Tiểu Thừa chủ yếu dùng Trí Huệ để chiếu phá phiền não,
thấy có Niết Bàn để cầu, thấy có phiền não để kinh
hãi xa lìa.
Thiền
Như Lai Đại Thừa chủ yếu dựa trên nguyên tắc chuyển y,
chuyển vọng thành chơn, chuyển thức thành Trí, chuyển phiền
não thành Niết bàn.
Thiền
Tổ Sư dựa trên quan điểm nào? Thật sự thì không có một
pháp nào hết trong Tổ Sư Thiền, do vậy sự truyền dạy rất
là khó trao cho người; chúng ta cũng biết là có những dòng
trong Tổ Sư Thiền như các dòng Vân Môn, Quy Ngưỡng, Pháp
Nhãn ở Trung Hoa, hay ở Việt Nam như Vô Ngôn Thông, Thảo Đường,
Trúc Lâm đã bị mất truyền. Chỗ khó truyền dạy này được
Ngài Trường Sa Cảnh Sầm ví như dạy nghề ăn trộm; người
cha dạy nghề ăn trộm cho con bằng cách đẩy con vào rương
của nhà "thân chủ", rồi tự con mới học được nghề tìm
sinh lộ. Trong ngôn ngữ cơ phong vấn đáp cũng vậy, Thầy
luôn luôn đẩy trò vào chỗ cùng tình tuyệt lý, suy nghĩ thế
nào cũng sai, mà không suy nghĩ cũng sai. Biết thế nào cũng
sai, nhưng hỏi Thầy thế nào là đúng thì Thầy không bao giờ
nói. Nhưng thật sự thì Tông chỉ đã nằm rải rác trong Pháp
Bảo Đàn Kinh, nhiều bộ Kinh khác, các pháp thoại và các
bài kệ chư Tổ để lại.
Không
chiếu phá xa lìa, không chuyển y, vậy thì Tổ Sư Thiền làm
gì? Phiền não với Niết Bàn cũng không từng mộng qua, vọng
với chơn đều không lập thì còn làm cái gì nữa. Đây chính
là pháp đốn siêu đốn nhập, không thứ lớp gì cả.
Chủ
yếu của Tổ Sư Thiền là phải Thấy Tánh trước. Trong Kinh
Kim Cang có nói "nhược kiến chư Tướng Phi Tướng tức Kiến
Như Lai," nếu thấy các Tướng không phải là Tướng thì là
thấy Tánh. Kinh Lăng Nghiêm lại nói "toàn Tướng tức Tánh,
toàn Tánh tức Tướng."
Lời
Kinh với ý Tổ thật sự không khác.
Âm
vang khác trong lời Tổ là "tức Tâm tức Phật," lời Mã Tổ
tháo đinh nhổ chốt cho Đại Mai. Khi thấy tăng chúng cắn
chữ nhai lời, Mã Tổ bèn đổi là "phi Tâm phi Phật phi Vật."
Nói ngược nói xuôi gì, lời nào cũng chỉ thẳng vào Tánh
mà nói. Còn nói có pháp nào, hay quy ý chỉ về một cách kỹ
thuật, các Tổ mới bất đắc dĩ mà nói, và khi nói vẫn
gọi đó là trò hoa đốm đóng tuồng (một khi trong mắt bệnh,
hoa đốm rụng tơi bời), dù đó là pháp an tâm hay bảo nhậm.
Sách
này gồm bốn bài viết và hai phụ lục.
Bài
"Thói Nhà Tào Động" chú giải một cách chi tiết và kỹ thuật
về tông phong Tào Động.
Bài
"Ảnh Trầm Hàn Thủy" chú giải một pháp thoại giữa Thiền
Sư Hương Hải (1628-1715), dòng Trúc Lâm, và vua Lê Dụ Tông.
Bài này chỉ pháp cho hàng thượng căn.
Bài
"Tạc Dạ Nhất Chi Mai" chú giải bài kệ của Thiền Sư Mãn
Giác (1052-1096), đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông. Bài này chỉ
thẳng vào Tánh Không Tịch Thường Chiếu của Pháp Giới Tâm.
Bài
"Giải Tín Tâm Minh" chú giải bản văn Tín Tâm Minh của Tam
Tổ Tăng Xán, và nhân đây nói về tông phong dòng Lâm Tế..
Phụ
Lục I là "Quy Củ Tọa Thiền" của Thiền Sư Đạo Nguyên,
Sáng Tổ Tào Động Nhật Bản.
Phụ
Lục II là "Krishnamurti và Thiền Định", dịch một số quan
điểm của Krishnamurti về Thiền định, cũng để nêu lên
Tông chỉ trong một ngôn phong mới của thế kỷ 20.
Tất
cả những điều được viết trong sách này không do sự chứng
biết bản thân, mà chỉ nhờ may mắn. Nhờ có Tông phong cao
tột, nhờ có Thầy giỏi, nhờ được chia xẻ một cộng nghiệp
với dòng phái và Bổn Sư, nay đem chút kiến giải sơ thiển
mong học nhân sớm vào cửa này.
Nếu
có gì sai sót, xin trọn sám hối trước ba đời chư Phật.
Nếu có chút gì công đức, xin hồi hướng đến khắp pháp
giới chúng sinh trọn thành Phật đạo.
Nam
mô Thường Trụ Tam Bảo Phật Pháp Tăng.
Đệ
tử đời thứ 3 dòng Thiền Tây Tạng,
Nguyên
Giác Phan Tấn Hải.
|