-
Phụ
Lục 6
-
Kho
Tàng Các Bài Ca
Theo
lời Ngài Ban Thiền Lạt Ma đời thứ nhất (1570-1662) trong
cuốn Bản Văn Căn Bản Cho Đại Thủ Ấn Theo Truyền Thống
Gelug/Kagyu, Pháp môn Đại Thủ Ấn được truyền cho các sư
Tây Tạng qua bốn vị Thánh Sư Ấn Độ Saraha, Nagarjuna, Naropa
và Maitripa. Phật Tử Việt Nam thường quen thuộc với Ngài
Nagarjuna qua tên gọi Long Thọ với các tác phẩm về Trung Quán
Luận. Trong khi đó, Ngài Saraha, thuộc thế kỷ thứ 9, lại
nổi tiếng về phương pháp truyền giảng bằng các bài ca.
Bản
văn dưới đây về Đại Thủ Ấn là của Ngài Sahara, có tên
là "Kho Tàng Các Bài Ca, Hay Mật Pháp Về Đại Thủ Ấn." Bản
Việt dịch của Nguyên Giác dựa theo bản Anh dịch của James
Low, trong cuốn Simply Being (NXB Vajra Press, London. 1998).
Theo
truyền thuyết do Tsultrim Allione ghi lại trong Women of Wisdom (NXB
Routledge & Kegan Paul, London. 1984), Ngài Saraha là một nhà
sư đại học giả, đã rời đại học để tìm học Mật
Pháp. Trên đường tìm học, Saraha gặp một thiếu nữ chế
tạo các mũi tên trong chợ. Ngài tới gần và hỏi xem nàng
có phải là một thợ chế mũi tên chuyên nghiệp. Nàng trả
lời: "Chàng thanh niên kia ơi, ý nghĩa của Phật có thể được
nhận biết xuyên qua biểu tượng và hành động, không phải
xuyên qua lời và sách." Ngài bắt đầu sống chung với thiếu
nữ giai cấp thấp này, nhận nàng làm Thầy. Điều này gây
phẫn nộ cho cộng đồng tôn giáo, bởi vì Ngài thuộc dòng
bà la môn chính thống. Những bài ca về chứng ngộ của Saraha
là đáp ứng của Ngài cho vua, hoàng hậu và mọi người —
những người đã ngờ vực về thái độ và hiểu biết tôn
giáo của Ngài từ khi Ngài sống với Thiên Nữ (dakini) này.
Thiên Nữ là một loại chúng sinh hiện hữu vượt qua cõi
nhị nguyên, mang hình tướng nữ, là nguồn năng lực của
trí tuệ, thường được vẽ trong tranh Tây Tạng như người
nữ có vẻ mặt hung dữ.
Một
hôm, Saraha yêu cầu nàng nấu cho Ngài món củ cải cà ry. Trong
khi nàng nấu, Ngài ngồi Thiền và nhập định suốt 12 năm.
Khi rời định, Ngài lập tức hỏi về món củ cải cà ry.
Nàng đáp: "Chàng ngồi trong định suốt mười hai năm không
đứng dậy và bây giờ lại muốn món củ cải cà ry, kiểu
như là nó vẫn còn đó. Thêm nữa, lúc này trong năm không
có củ cải."
Khi
Ngài trả lời là muốn lên núi để ngồi Thiền, nàng trả
lời: "Cứ đơn giản đem thân chàng xa khỏi thế giới này
thì không phải là xa lìa chân thực. Xa lìa chân thực chỉ
có khi nào tâm chàng rời bỏ các tạp niệm. Nếu chàng ngồi
trong định mười hai năm và không thể rời bỏ mong muốn
ăn món củ cải cà ry, thì có lên núi cũng vô ích?"
(BẢN
VĂN BẮT ĐẦU)
Kính
đảnh lễ Sri Vajradakini.
Kính
đảng lễ tánh nhận biết thuần khiết đồng hiện hoan lạc
nhất.
YÙ
nghĩa của bản văn sẽ trình bày làm ba phần.
PHẦN
I
Trước
tiên là lời dạy về điều kiện tự nhiên của Đại Thủ
Ấn. Điều này có ba phương diện.
A.
Thứ nhất, giải thích về cách các vật hiện hữu.
Bất
cứ những gì chuyển động hay không chuyển động, và tất
cả những gì ổn định hay bất ổn định, và bất cứ những
gì là vật chất hay phi vật chất, và tất cả những gì tự
hiện hữu như các hiện tướng và tất cả những gì không
như vậy — vạn pháp, không loại trừ, đã chưa bao giờ và
sẽ không bao giờ từng chao động ra khỏi bản tánh như hư
không. Thêm nữa, mặc dù chúng ta dùng chữ 'hư không' để
nói về bầu trời, hư không tự thân cũng không có tự tánh
chút nào. Nó thì hoàn toàn vượt ra khỏi việc hiện hữu
như một vật có thể được nói bằng các khái niệm minh
bạch như là 'là', 'không là', 'không hiện hữú, và 'không
không-hiện-hữú và tất cả các khái niệm còn lại. Cùng
một cách như vậy, hư không, tâm và thực pháp không hề khác
nhau chút nào. Tất cả những tên gọi mà chỉ ra dị biệt
thì chỉ đơn giản là các nhãn hiệu tình cờ đột khởi.
Chúng không có giá trị thực nào, và chỉ đơn giản là các
chữ để mô tả. Tất cả đều là tâm của ngươi.
Vượt
ngoài tâm của ngươi, không có ngay cả tới một mảy may của
bất cứ gì khác. Bất kỳ ai nhận thức rằng, từ khởi đầu
không hề có một tâm cá thể [tự ngã] nào, thì người đó
đã đạt được hiểu biết tối thắng của chư Phật ba thời.
Cái
được biết đến nhiều như là sự tròn đầy tự nhiên thì
không phải là một ý tưởng sai lạc, bởi vì ngay tự khởi
đầu, nó chính là tánh đồng hiện. Tánh đó không có thể
được mô tả; nó không có thể được bày tỏ bằng lời,
và không ai có thể hiểu nó trong một cách nhị nguyên. Nếu
có một người chủ, thì người này sẽ có vài sở hữu.
Nhưng nếu ngay từ khởi đầu đã không hề có cái gì gọi
là tự ngã, thì cái vô ngã này có thể sở hữu những gì?
Nếu
tâm là cái gì thật, mà người ta sở hữu được, rồi thì
tất cả hiện tượng cũng sẽ là thật và có khả năng chiếm
sở hữu. Nếu không có tâm, ai sẽ hiểu được cái gì là
cái gì?
Tâm
và tất cả các niệm mà chúng ta có thể nhận thức không
có thể được nắm bắt bằng tìm kiếm — và chính người
tìm kiếm cũng không có thể được tìm ra. Không hề có người-biết
nào và cũng không hề có cái-được-biết nào hiện hữu như
thế, và như vậy, chúng thì vô sanh và không ngưng nghỉ trong
quá khứ, hiện tại và tương lai. Tâm này không dời đổi
bởi vì nó là trạng thái tự nhiên của niềm đại hoan lạc
nội tại. Vì lý do đó, tất cả hiện tướng đều là trạng
thái tự nhiên. Tất cả chúng sinh đều là Phật. Tất cả
những dựng lập và hành động đều ở trong không gian trùm
khắp này từ thuở khởi đầu. Tất cả những gì được
nhận diện bởi ngôn ngữ và khái niệm đều y hệt như sừng
thỏ.
B.
Thứ nhì, để cho thấy cách chúng sinh bị mê mờ không nhận
ra thực tại này.
A!
Khi mặt trời không bị mây che, tia nắng chiếu mọi nơi, nhưng
những ai không có mắt thì vẫn chỉ thấy bóng tối mãi mãi.
Tánh đồng-hiện tự-nhiên thì đầy khắp mọi nơi, nhưng
những người ngu thì thật xa khỏi nó. Bởi vì chúng sinh không
hiểu rằng tâm không phải là một cá-thể tự-ngã, họ buộc
chặt tánh tự nhiên nguyên khởi bằng cách dựa vào sự phân
biệt và phán đoán khái niệm. Rồi thì, hệt như những người
điên vì ma ám, chúng sinh trở thành yếu đuối, vô nghĩa và
gây đau khổ cho chính họ.
Tin
rằng các vật là có thực, chúng sinh bị vây bắt bởi con
đại quỷ ý niệm, và do vậy, họ chỉ tạo ra các đau khổ
vô nghĩa cho chính họ. Một số những người ngu này bị trói
buộc bởi sự phân biệt của tri thức họ. Họ giữ ông chủ
(tức là Tâm) tại nhà và đi mọi nơi khác để tìm. Một
số họ tin rằng ảnh phản chiếu là có thực. Một số họ
không cắt cội rễ, nhưng chỉ cắt nhánh và lá. Bất kể
họ làm gì, họ không biết là đang bị dối lừa.
C:
Thứ ba, bày tỏ cách mà các nhà ẩn tu chứng ngộ.
Tuyệt
diệu! Các chúng sinh như trẻ thơ không biết thực tánh của
họ, nhưng ta (lời xưng của Đại Sư Sahara, có thể dịch
là Thầy, hay Tôi. LND) chứng ngộ nó bằng cách không bao giờ
chao động ra khỏi trạng thái của thực tánh đó. Ta đã hiểu
biết được cái khởi đầu và cái tận cùng của tự ngã,
và do vậy ta nhìn thấy chính ta, cái thực tánh của ta đang
cư trú đơn độc. Nhưng mặc dù cái sự đơn độc này được
kinh nghiệm, nó vẫn không được xem như là chận thực mạnh
mẽ. Không có người nhìn thấy, cũng không có cái gì được
nhìn thấy, và do vậy nó không có thể được bày tỏ. Và
bởi vì nó không có thể bày tỏ, ai có thể biết nó?
Khi
ngươi tu tập tâm bất động, rồi thì ngươi sẽ thâm nhập
cái chứng ngộ mà ta, một người ẩn tu, đã thâm nhập. Sữa
của một con sư tử tuyết không có thể được chứa trong
một bình phẩm chất xấu. Khi con sư tử rống trong rừng,
tất cả các con nai đều kinh sợ, nhưng các sư tử con đều
hạnh phúc và chạy tới mẹ chúng. Tương tự, niềm đại
hoan lạc, vốn là vô sanh từ khởi đầu, được truyền dạy,
những người ngu vốn mang sẵn tà kiến sẽ kinh sợ, nhưng
những người may mắn sẽ rất là hạnh phúc và râu tóc trên
khắp người họ đều rung động.
PHẦN
II
Trong
phần thứ hai này, ba phương diện của con đường Đại Thủ
Ấn sẽ được trình bày.
A.
Quyết định rõ ràng dựa trên căn bản của cách nhìn.
Điều
này có ba phần.
1.
Thứ nhất, bản chất của cái nhìn sẽ được trình bày.
Tuyệt
diệu! Hãy nhìn vào chính ngươi với một tâm không chao động.
Nếu chính ngươi chứng ngộ thực tánh của ngươi, tâm chao
động cũng sẽ khởi lên như đại thủ ấn. Trong trạng thái
của đại hoan lạc, tất cả những đặc tính nhị nguyên
đều tự giải thoát.
Khi
một người tỉnh thức từ một giấc mơ, người này thấy
rằng tất cả những niềm vui và nỗi khổ trong mơ đều không
có tánh thực nào. Do vậy, hãy rời bỏ tất cả những suy
nghĩ ngờ vực và hy vọng, bởi vì ai ở đó để nghĩ ngợi
về việc ngăn cấm và khuyến khích?
Bằng
cách nhìn thấy thực tánh, học nhân trực nhận rằng vạn
pháp ở trong luân hồi và niết bàn thì hoàn toàn không có
tự tánh cá thể, và do vậy các niệm hy vọng và nghi ngờ
đều biến mất. Lúc đó, ai sẽ cần ra sức buông bỏ và
chấp giữ? Tất cả hiện tướng và tất cả thanh âm thì
y hệt như ảo ảnh huyền thuật, như ảnh hiện dưới nước
hay như ảnh hiện trong gương — chúng đều không có những
đặc tính của những cái có vẻ như thực thể. Người nào
hiểu được tánh hư ảo của các hiện tướng thì người
đó chính là tự tánh của tâm như hư không. Tánh thực này
không có chặng giữa hay giới hạn, và như thế ai sẽ có
thể hiểu được nó? Có nhiều dòng sông khác nhau như Sông
Hằng vân vân, nhưng khi chúng tới biển mặn, chúng đều mang
cùng một vị. Tương tự, tâm phân biệt và tất cả các kiến
thức và chức năng của tâm này phải được thấy là chỉ
có một vị trong thực tánh.
2.
Thứ nhì, để trình bày phương pháp chứng ngộ.
Nếu
có ai truy tìm khắp hư không, họ sẽ thấy rằng nó không
có chặng giữa hay mép bờ, và do vậy họ sẽ hoàn toàn xa
lìa các khái niệm này. Tương tự, nếu chúng ta truy tìm xuyên
qua tâm và vạn pháp, chúng ta sẽ không có thể tìm thấy ngay
cả một mảnh nhỏ của hiện hữu thực. Cái tâm đang làm
công việc đi tìm kiếm thì không có thể được trực nhận.
Do vậy, hãy thấy rằng không có gì có thể được thấy (như
là hiện hữu thực).
3.
Thứ ba, đừng xa lìa tánh này.
Cứ
hệt như một con chim quạ, được thả từ một chiếc tàu,
bay vòng quanh mọi hướng, nhưng rồi quay lại tàu (khi nó không
nhìn thấy mặt đất liền), cũng vậy cái tâm đầy khát vọng
có thể chạy đuổi theo các niệm nhưng rồi an trụ trong tánh
bất dời đổi của tâm. Không bị ảnh hưởng bởi các hoàn
cảnh, xa lìa các hy vọng, học nhân phá hủy tất cả các
ngờ vực ẩn kín — đó chính là tâm kim cương.
B:
Có ba phương diện thiền định
1.
Thứ nhất, phi-thiền-định của đại thủ ấn.
Tánh
thực của tâm, mà đã cắt lìa cội rễ (vô minh), thì như
là hư không. Không có thiền định nào để tu tập, do vậy
hãy tránh thiền định. Gìn giữ tâm bình thường trong trạng
thái nguyên sơ tự nhiên, nó sẽ không bị ô nhiễm bởi bất
kỳ khái niệm nhân tạo nào. Tâm thanh tịnh tự nhiên này
không cần tới kỹ thuật nào. Không giữ chặt quá hay thả
lỏng quá, hãy an nghỉ trong tánh tự nhiên của ngươi. Nếu
không có gì để chứng ngộ, thì tánh biết không cần tới
gì để thiền định. Và học nhân, người chứng ngộ, thì
xa lìa cả hai đối tượng của thiền định và người thiền
định. Y hệt như hư không không phải là một đối tượng
cho hư không, Tánh Không (sunyata) không thiền định trên Tánh
Không. Sự hiểu biết bất nhị này thì y hệt như sữa trong
nước, và do vậy tất cả mọi thứ sẽ không dời đổi trong
sự hoan lạc hoàn toàn của hội nhập.
2.
Thứ nhì, thiền định tối thượng của việc không bao giờ
xa lìa khỏi tánh của phi-thiền-định.
Trong
cách này, xuyên khắp ba thời, hãy cư trú trong trạng thái
nguyên sơ vô giới hạn không-cần-thiền-định. Để duy trì
điều này chính là cái mà truyền thông gọi là "thiền định."
Đừng kềm chế các ngọn gió sinh động, đừng buộc tâm.
Hãy giữ sự tỉnh thức không-tạo-tác y hệt như ngươi là
một đứa trẻ. Khi các niệm và ký ức trổi dậy, hãy giữ
sự hiện diện của tánh thực của ngươi — đừng tạo ra
bất kỳ khác biệt nào giữa nước và sóng!
3.
Thứ ba, lấy thí dụ để minh họa con đường đại thủ ấn.
Cái
tánh thực, vốn xa lìa việc uốn nắn tâm bình thường, thì
hoàn toàn giải phóng ba nguyên tắc của việc tương tác (LND:
chủ thể, khách thể và quan hệ giữa chúng).
Trong
đại thủ ấn, tâm không được dựng lập để làm việc,
và không có một chút nhỏ nào của việc thực tập thiền
định, và do vậy không có cái gọi là thiền định. Thiền
định tối thượng thì không bao giờ bị ngăn cách khỏi tánh
của phi-thiền-định: bất nhị, đồng hiện tự nhiên, đây
là hương vị của hoan lạc hoàn toàn.
Khi
nước được đổ vào trong nước, nó chỉ có một vị, và
tương tự khi ngươi hoàn toàn sống trong trạng thái tự nhiên,
thì tâm thức mong đợi và sự khái niệm hóa sẽ hoàn toàn
được chấm dứt.
C.
Có ba phương diện đối với việc giảng dạy cách hành xử
1.
Thứ nhất, để trình bày rằng việc hành xử đại thủ ấn
không bị cố định bởi quy luật.
Tuyệt
diệu! Các học nhân nào, những người cư trú trong tánh bất
động của bất nhị, sẽ không có một chút mảy may nào của
việc chấp giữ và gạt bỏ. Ta không nắm giữ cũng không
gạt bỏ bất kỳ hiện tượng nào, và do vậy ta không bảo
ngươi, các con của ta, làm bất kỳ điều gì. Y hệt như viên
ngọc này, tâm, vốn không có thực tại căn bản nào, cũng
vậy việc hành xử của người tu thì cũng xa lìa thực tại
căn bản.
Chúng
ta nói về rất nhiều, rất nhiều loại khác nhau của việc
thiết lập tâm thức, nhưng người tu cư ngụ chỉ trong một
nhận thức. Và đó thì không phải là một cá thể, và do
vậy người tu thì hoàn toàn xa lìa khỏi nhiều khả thể của
việc tâm thức biến hóa. Vậy nên, với cái tự do vô giới
hạn này, hãy duy trì cách hành xử như trẻ thơ xa lìa khỏi
mọi hành động có chủ ý.
2.
Thứ nhì, giảng dạy về cách tránh ô nhiễm bởi hoàn cảnh
khách quan khi hành xử trong cách đó.
Tuyệt
diệu! Tâm cũng hệt như hoa sen mọc từ đám bùn sinh tử luân
hồi, bất kể bao nhiêu tội lỗi học nhân đã có, tâm cũng
không bao giờ bị vấy chạm bởi bất kỳ tội nào. Thức
ăn và thức uống đều mang tới vui thú, nhưng tâm ngươi và
thân ngươi cũng có thể bị hành hạ bởi chúng. Do vậy, bất
kể những gì ngươi sử dụng tới, hãy đừng để bị ảnh
hưởng, không bị buộc ràng mà cũng không xa lìa bỏ chạy.
3.
Thứ ba, giảng dạy về việc làm lợi người khác một cách
tự nhiên qua lòng từ bi không khát vọng.
Từ
trạng thái của việc hành xử vô giới hạn của chứng ngộ,
khi nhìn thấy sự đau đớn của chúng sinh, nước mắt rơi
chảy từ một lòng từ bi tràn ngập. Trao cho họ sự hạnh
phúc của ngươi và xoa dịu nỗi đau của họ, ngươi dấn
thân để làm lợi chúng. Nếu ngươi khảo sát thực tại,
ngươi sẽ thấy rằng nó thì xa lìa khỏi ba khái niệm của
chủ thể, đối tượng và quan hệ của chúng. Nó thì không
phải là cái gì có thật, bởi vì nó hệt như mộng hay trò
ảo thuật. Xa lìa khỏi tất cả tham vọng và gắn bó, ngươi
kinh nghiệm một niềm hoan lạc xa khỏi mọi sầu khổ, do vậy
hãy hành động như một vị thầy làm trò ảo thuật.
PHẦN
3
Phần
ba nói về thành tựu đầy đủ đại thủ ấn.
A.
Giảng dạy về sự thành tựu nào đó của kết quả
Thanh
tịnh nguyên sơ trong bản tánh như hư không, sẽ không có một
mảy may nào để thành tựu hay buông bỏ. Đây là đại thủ
ấn xa lìa khỏi mọi hóa hiện tâm thức, do vậy đừng mong
mỏi bất kỳ kết quả nào! Bởi vì cái tâm, mà đang mong
mỏi hy vọng, vốn thật vô sanh ngay từ thuở khởi đầu,
làm sao còn có thể có một mảy may nào để được thành
đạt hay buông bỏ? Bây giờ nếu có ai có thể thực sự sở
hữu một thực thể nào, rồi thì cái gì sẽ trở thành lời
dạy về bốn pháp ấn?
B.
Giảng dạy về sự mong muốn đạt một điều gì trong khi
không có gì để đạt
Y hệt
như một con dê núi khi bối rối vì khát nước, phóng chạy
nhanh về hướng nước nó nhìn thấy trong một ảnh chiếu,
những người ngu bị phiền não vì khát vọng khám phá ra rằng
bất kể họ nỗ lực bao nhiêu, mục tiêu của họ chỉ lại
xa thêm.
C.
Không tìm đạt bất cứ gì, đó gọi là thành đạt Kim Cương
Trí
Tánh
thanh tịnh tuyệt đối vốn là vô sanh ngay từ khởi đầu,
và khi không có một chút mảy may phân biệt nào, thì cái tâm
thức vốn tạo ra sự phân biệt sẽ được thanh tịnh ngay
trong cõi thực tại. Tên duy nhất cần được chỉ vào đây
là Vajradhara ('không bao giờ đi lạc ra khỏi tánh thanh tịnh').
Cũng như trong một sa mạc khô hạn, học nhân thấy bóng nước
sạch nơi mà thực sự không hề có, cũng vậy cái tâm mà
gọi tên và phân biệt phải được thanh tịnh hóa ngay trên
chính sự thanh tịnh nguyên sơ. Nó không có thể được diễn
bày với các chữ như là không-đổi hay hoàn toàn biến mất.
Y hệt
như viên ngọc như ý và cây như ý, các hy vọng của ngươi
sẽ được hoàn mãn bởi sức mạnh của sức tinh tấn của
ngươi (để chứng ngộ pháp môn này). Thêm nữa, các nhận
thức truyền thống về thế giới này chỉ tùy thuộc vào
sự thật tương đối — trong thực tại, không một vật nào
có bất kỳ hiện hữu riêng thực nào.
Giảng
dạy bí mật về đại thủ ấn được gọi là "Kho Tàng Các
Bài Ca" (Dohakosa) khởi lên từ lời của nhà ẩn tu linh thánh
Saraha. Được dịch bởi học giả Ấn Độ Vairocanaraksita.