Chương
2
ẢNH
TRẦM HÀN THỦY
Bài
này để chú giải bài thơ "Ảnh Trầm Hàn Thủy" của Thiền
Sư Hương Hải, thuộc Thiền Phái Trúc Lâm, trong một pháp
thoại với vua Lê Dụ Tông. Riêng cũng để trả lời cho câu
hỏi của một người bạn cách nay nhiều năm, mà lúc đó
chưa thể nói hết ý, vì thứ nhất là khó giải bày những
hình ảnh Thiền cho người bạn Thiên Chúa giáo, thứ nhì là
câu hỏi đó do trước là một hiếu kỳ văn học, sau là một
tò mò về Thiền, chứ không để tâm về chỗ thực tham thực
ngộ, dù vậy nay cũng có lời để cảm ơn tri ngộ. Nếu có
lời nào trong bài này hợp ý Tổ thì đó là nhờ ơn sâu day
dỗ của Thiền Sư Trạm Nhiên Tịch Chiếu, chùa Tây Tạng
(Bình Dương, Việt Nam); nếu có lời nào chưa phải, xin trọn
lòng sám hối trước ba đời chư Phật.
Bấy
giờ Thiền Sư Hương Hải đã 78 tuổi, được vua Lê Dụ Tông
mời vào nội điện lập đàn cầu tự vì hiếm con. Vua hỏi
Sư:
- Trẫm
nghe Lão Sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão Sư thuyết pháp
cho Trẫm nghe để Trẫm được liễu ngộ.
Sư
đáp:
- Xin
bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu 4 câu kệ này:
Phản
văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm
sát tư duy tử tế khan
Mạc
giáo mộng trung tầm tri thức
Tương
lai diện thượng đổ sư nhan.
Thượng
Tọa Thanh Từ dịch là:
Hằng
ngày quán lại chính nơi mình
Xét
nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong
mộng tìm chi người tri thức
Mặt
Thầy sẽ thấy trên mặt mình.
Qua
cách đặt câu hỏi của một người nào đó, chúng ta có thể
xét định được tầm nhìn, tầm hiểu của người hỏi. Ở
đây ta thấy vua Lê tìm Sư là do ý định cầu tự tìm con
trai, chứ khởi tâm không có ý định cầu pháp giải thoát.
Người xưa muốn hiểu đạo phải trèo núi vượt sông, tìm
đủ thiện tri thức, không tiếc thân mệnh mình, chứ có đâu
quan liêu thoải mái như ông vua này. Ta thấy ngay động cơ
tìm nhau đã là chưa ổn rồi. Nhưng vì lòng từ bi, Thiền
Sư cũng mượn phương tiện thiện xảo, giở trò phù thủy
lập đàn cầu tự, để tìm cơ hội hóa đạo.
Vua
nói: "...Lão Sư học rộng nhớ nhiều..." Thế là hỏng, không
có câu nào phỉ báng một Thiền Sư hay ho đến như vậy. Nói
câu này với một Giảng Sư, Pháp Sư hay Luận Sư thì thật
là tuyệt diệu, không lời khen ngợi nào hơn. Nhưng tai hại
thay, người trước mặt lại là một Thiền Sư, thật là hỏng
bét. Nhắm ngay một người chủ trương bất lập văn tự mà
không chịu hỏi chỗ không lời mà nói, không tâm mà nắm,
không ý mà truyền, lại khen rằng sao đầu Thầy nhồi nhét
lắm chữ thế... Không gì nhảm hơn. Ngay câu đầu mở miệng,
vua đã hiện tướng chồn hoang rồi, biết tới kiếp nào mới
thành sư tử.
Kế
tiếp, vua nói "... để Trẫm liễu ngộ." Vậy là cũng có hùng
tâm lắm, can đảm lắm, dám đòi ngộ ngay sau một bài pháp.
Nhưng căn bản đã sai rồi, nếu bài pháp này do chỗ "học
rộng nhớ nhiều" thì không thể nào có một Thiền Sư đứng
trước mặt như vậy và cũng không thể nào vua liễu ngộ
sau một lời được. Một bài pháp thích đáng phải là do
chỗ không có gì để học và cũng không có gì để nhớ.
Đối
với mỗi căn cơ, các Thiền Sư sẽ có những cách dạy khác
nhau. Ngay cả đối với hàng căn cơ cực cao, các Sư cũng phải
chuẩn bị mọi chuyện thuần thục rồi mới nói chuyện tới.
Ở đây, ta thấy Sư Hương Hải đã dùng nhiều lời cho thích
hợp với ông vua hỏng kiểu này.
Ý
của Sư qua 4 câu đó là, mỗi giây phút trong đời, vua phải
quán sát, nghe ngóng tâm mình. Mình đang ở trong một giấc
mộng lớn (ý là cuộc đời như huyễn này) này đâu cần
phải tìm chi thiện tri thức (cũng là người mộng trong giấc
mộng này thôi). Cứ quán sát tự tâm như vậy hoài tới một
lúc sẽ thấy được khuôn mặt của Thầy (ý là mặt Phật)
trên khuôn mặt của mình. Rõ ràng ở đây chẳng có gì là
bí hiểm cả, cũng chẳng có đánh đập la hét gì cho có Thiền
vị cả. Câu chuyện chỉ là cứ việc theo dõi các niệm trong
tâm liên tục như vậy, tới một lúc sẽ thấy mặt Thầy
(hay mặt Phật, Tánh Phật hay Tâm Phật) trên mặt mình (hay
tự tâm).
Từ
phản văn tự kỷ cho tới thẩm sát tư duy vẫn chưa đúng
là Thiền Đốn Ngộ. Hay nói đúng hơn, đó mới chỉ là Như
Lai Thiền chứ chưa thực là Tổ Sư Thiền. Trước khi phân
biệt hai thứ Thiền này, chúng ta nên nói thêm về cách trả
lời của các Thiền Sư. Giáo pháp của đức Phật được
ví như ngón tay chỉ mặt trăng. Các Thiền Sư thường không
ưa nói về ngón tay mà thường chặt phăng ngón tay để nói
thẳng tới mặt trăng. Bởi vì cái con đường có giá trị
nhất phải là cái con đường không có đường, cánh cửa
vào nhà Tổ trực tiếp nhất phải là cửa không cửa. Có
gì đâu phải loanh quanh đi tìm đường lên Niết Bàn hay cửa
vào nhà Tổ, trong khi chỉ cần chớp mắt cho rụng tí bụi
đã thấy ngay ta vẫn hằng ngồi yên trong Thanh Tịnh Pháp Thân.
Mà vốn thật có chi gọi là bụi đâu mà phải chớp mắt
nhướng mày hay là lau sạch đài gương.
Hai
cách gọi Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền thường ít được
dùng vì thật sự cả hai đều từ một gốc mà ra. Nhưng sự
phân biệt chỉ là để nhấn mạnh hơn một nghĩa khác biệt.
Như Lai Thiền là những pháp môn Thiền do từ lời dạy của
đức Phật. Tổ Sư Thiền là pháp môn Thiền không do từ lời
dạy mà do từ cử chỉ của Phật khi cầm đóa hoa đưa lên
và mỉm cười. Bấy giờ chỉ duy có ngài Ca Diếp hiểu được
và nhận truyền thừa. Các Tổ truyền đăng pháp nay qua nhiều
đời, tới khi gặp những cơ may của đời sau mới phát triển
rộng ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản...
Tổ Sư Thiền còn nhiều tên gọi khác để chỉ như là Đốn
Ngộ Thiền, Trực Chỉ Thiền, Phật Tâm Tông, Tâm Tông... Quan
niệm của Như Lai Thiền là phải huân tập từ từ (tiệm)
đầy đủ giới, định, huệ mới thành Phật được. Quan
niệm của Tổ Sư Thiền là đốn, là ngay tức khắc, là một
nhảy liền vào đất Như Lai như cách nói của Thiền Sư Huyền
Giác trong Chứng Đạo Ca:
Đốn
giác liễu Như Lai Thiền.
(Nếu
đốn ngộ được thì là hoàn thành hết cả Như Lai Thiền)
Bởi
vì Trong Tự Tánh đã saün đủ giới, định, huệ. Vả lại,
giới, định, huệ do sự tu tập làm sao bằng được giới,
định, huệ của Thanh Tịnh Pháp Thân. Vấn đề chỉ còn là
làm sao nhảy được vào đất Như Lai. Cách tốt nhất vẫn
là tìm cho được một vị thầy có bản sắc của Tông môn.
Bốn
câu kệ trên của Sư Hương Hải vẫn còn dựa vào Như Lai
Thiền. Những gì là phản văn với thường quan với thẩm
sát tư duy chưa có gì là trực chỉ hết. Đây vẫn còn là
ngón tay chứ chưa là mặt trăng, vẫn là con đường có đường
và cánh cửa có cửa. Sư có thương vua Lê cũng không thể
nói khác hơn được vì ông vua này mới mở miệng đã bốc
mùi chồn hoang rồi, chưa được chuẩn bị để húc đầu
vào vách bạc tường sắt. Ngay cả câu cuối, nói sẽ thấy
mặt Phật trên mặt mình cũng chỉ mới là Như Lai Thiền.
Cái chữ tương lai đầu câu bốn đã làm hỏng cả những
kiểu nói của Huệ Năng, Huyền Giác... Làm sao nhảy được
vào đất Như Lai với cặp nạng của phản văn với thẩm
sát nhỉ. Đây là chỗ không một tâm có thể nắm bắt được
thì lấy tâm nào là tâm tương lai để thấy được tâm Phật
trong tâm mình. Cốt yếu của Tổ Sư Thiền còn ở chỗ này:
Còn thấy được tâm Phật trong tâm mình vẫn chưa là thực
ngộ.
Vua
Lê Dụ Tông vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác. Cái này là đương
nhiên, có đánh thêm ba mươi gậy vẫn còn là hỏng kiểu.
Vua lại hỏi thêm:
- Thế
nào là ý của Phật?
Sư
đáp:
Nhạn
quá trường không
Ảnh
trầm hàn thủy
Nhạn
vô di tích chi ý
Thủy
vô lưu ảnh chi tâm.
Thượng
Tọa Thanh Từ dịch nghĩa:
Nhạn
bay trên không
Bóng
chìm đáy nước
Nhạn
không có ý để dấu
Nước
không có tâm lưu bóng.
Một
lần nữa, chúng ta phải lắc đầu đến nản vì ông vua này.
Lần đầu phải gọi là chồn hoang, lần này không biết gọi
là gì cho đáng. Đứng trước mặt một người dạy Tổ Sư
Thiền mà hỏi ý của Phật là nhảm nhí không gì bằng. Muốn
biết ý Phật cứ việc lật kinh điển ra đọc là đủ. Phật
đã nói hết cả, đâu có giấu gì đâu. Duy có điều không
nói được là không nói được mới đáng hỏi chứ. Câu đáng
lý ra phải hỏi là "Ý của Tổ Sư là gì?" vẫn được các
Thiền sinh thắc mắc từ đời này qua đời nọ. Để cho có
vẻ chính quy sách vở hơn thì là như hà thị Tổ Sư Tây lai
ý, ý của Tổ Sư (Bồ Đề Đạt Ma) từ phương Tây tới là
gì. Đầu thai ba mươi kiếp nữa biết Lê Dụ Tông có thấm
nỗi trận đòn này chưa, khổ quá, hỏng không gì bằng, chỉ
mệt cho người đời sau phải lôi pháp thoại này ra chú giải.
Sau
khi nghe bài thơ của Sư, vua khen ngợi:
- Lão
Sư thông suốt thay.
Khổ
quá, hiểu không nổi, hỏi không xuôi, mà lại khen như thầy
người ta ấy, như thể vừa cố tâm bắt bí học trò. Nào
có biết đâu Lão Sư vừa mới bắt bí đến cả mấy chục
đời sau. Nắm được diệu nghĩa của mấy câu này cũng đủ
để đi hiên ngang giữa dòng đời bất tuyệt mà không dính
một tí bụi vào thân.
Chúng
ta có thể thấy thứ tự câu chuyện như vầy. Đầu tiên vua
khen Sư học rộng nhớ nhiều rồi xin nghe một bài pháp để
được liễu ngộ. Sư tặng cho bốn câu chỉ pháp Như Lai Thiền.
Bốn câu này dễ hiểu quá, Trời ơi, vua tưởng bở thừa
thắng xông lên, hỏi thêm một câu trật chìa nữa. Sư vẫn
rất mực từ bi, phơi mở tận cõi lòng, tặng thêm bốn câu
chỉ pháp Tổ Sư Thiền. Tới đây vua mới choáng váng mặt
mày, biết là khó ăn, mới khen một lời, ý là để xin thôi.
Ta
thấy bài này để chỉ pháp cho hàng thượng căn, chỉ ngay
cảnh giới của chư Phật. Ở đây Sư đã rất mực từ bi,
vua hỏi ý của Phật, Sư chỉ ngay cảnh giới chư Phật, nào
có khó tính như các Sư khác. Đúng ra nhằm một câu hỏi trật
cách Tông môn như vậy, câu trả lời đáng là bảo vua về
lật kinh điển mà tìm ý của Phật. Hiểu được ý của Phật
chưa chắc đã hiểu được lời của các Thiền Sư. Nhưng
hiểu được lời của các Thiền Sư chắc chắn hiểu được
ý Phật.
Cánh
chim nhạn bay trên không. Ảnh của chim hiện trong nước. Ảnh
chỉ hiện đúng được khi sóng (niệm) lặng. Chim nhạn (hay
vật, hay cảnh, hay là pháp) không có ý lưu dấu (đây là chỗ
mây rồi sẽ bay qua đi, sóng rồi sẽ lặng xuống, bụi vốn
không thật là bụi, niệm vốn thật vô tự tánh).
Nước
(hay là Tánh của Tâm, đây là chỗ Thức đã chuyển thành
Trí) cũng không có tâm (đây là tâm vô tâm, hay tâm của kẻ
giác ngộ, gọi khác là tâm đã không còn một hiện tượng)
lưu bóng chim nhạn (đây là chỗ cảnh tự trụ cảnh, niệm
cứ việc khởi, bụi cứ việc bay, nhưng gương Trí đã sáng,
sự thật là vốn hằng sáng, thì lấy đâu là nơi cho niệm
lưu, cho bụi bám). Sư đã rất mực từ bi, bài toán này không
thích hợp cho ông vua đa tình hiếm con này.
Đây
là cảnh giới của vô tâm, nhưng Hồ đến thì hiện Hồ,
Hán đến thì hiện Hán (như cách gọi của Sư Lâm Tế).
Cánh
chim nhạn (hay là cảnh, hay pháp) thấy được là không (pháp
vốn tự tánh) rồi, và nước (khi bặt sóng, hay tâm vô tâm,
hay Tánh của Tâm, hay tánh vô tự tánh của tâm) đương nhiên
hiện ảnh (nhạn đến thì hiện nhạn) mà không hề khởi
tâm (tâm đã không thì lấy gì để khởi), mà cũng không có
tâm lưu ảnh (thấy được tánh của pháp là vô tự tánh,
tánh của niệm là vô tự tánh, vào nơi vô niệm mà niệm
vẫn hằng sinh, hay ở nơi niệm mà vẫn hằng vô niệm - tâm
của kẻ giác ngộ - thì lấy tâm nào để mà lưu ảnh).
Nhưng
lấy đâu làm viên gạch dộng cửa để vào nhà Tổ đây,
lấy gì làm trớn để một nhảy liền vào đất Như Lai, đứng
thẳng ở cảnh giới này? Đối với hàng thượng căn, mọi
chuyện thầy đã chuẩn bị thuần thục, thì bốn câu này
là đủ. Ngoài ra thì hoàn toàn không có viên gạch nào dộng
cửa trong bốn câu này cả, không một phương tiện thiện
xảo nào để vin lấy mà đi cả. Cánh cửa đã mở rộng tới
hư không thì biết đâu là cửa để mà vào, quan ải đã quét
sạch (trong 4 câu này) tận hư không thì làm sao người Thiền
sinh biết chỗ mà một đao qua ải?
Một
khi đã thấy pháp (hay cảnh, hay nhạn) vốn vô tự tánh (không
ý lưu bóng) và nước (tâm) vốn vô tự tánh (nên không tâm
lưu ảnh) thì đã vượt qua cả cảnh giới tâm cảnh nhất
như (cảnh giới thứ ba của Tứ Liệu Giản, pháp không và
tâm không). Đây là cảnh giới thứ tư của Tứ Liệu Giản,
tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh; pháp và tâm đã không
(vô) tự tánh được rồi lại tới đây (trong 4 câu này) ngay
đến cái không (vô) đó cũng không dựng lập lên thì lấy
đâu mà không với có nữa. Bấy giờ là cảnh giới niệm
khởi mặc niệm mà tâm vẫn hằng vô niệm, lấy gì mà dựng
lập Niết Bàn với sinh tử, thiên đường hay địa ngục.
Nói
trở lại, tâm đã không và pháp đã không thì hiện tướng
tâm cảnh nhất như, chỉ còn một cái thấy biết mình người
không cách nhau tới một sợi tóc, thấy tính bình đẳng của
vạn pháp (phạm trù thứ ba nhắc trên). Nhưng trong bốn câu
này, cái đa (mình người, tâm pháp, nước và nhạn) đương
nhiên đã không dựng lập (vốn không ý không tâm thì lấy
gì mà dựng với lập), mà ngay đến cái nhất (mình người,
tâm pháp vô phân biệt) cũng không hề có (cái vô phân biệt
cũng không hề dựng lập) thì lấy gì mà gọi nhất như với
như nhất nữa. Nói trở lại lần nữa cho rõ hơn, không thấy
cái đa thù (phân biệt) thì thấy cái nhất như (tính bình
đẳng hay tâm vô phân biệt), nhưng ở đây (bốn câu của
Sư Hương Hải) trong cảnh giới này ngay đến cái như ấy
còn không dựng lập thì còn chỗ đâu mà đa với nhất, mà
gọi là phân biệt hay vô phân biệt. Nói cho đúng thuật ngữ
nhà chùa là, ở chỗ này, lấy gì để mà đoạt với bất
đoạt.
Trong
bốn cảnh giới thấy tánh vô tự tánh của Tứ Liệu Giản,
Thiền Sư Hương Hải lại lấy ngay cảnh giới thứ tư chỉ
cho vua Lê Dụ Tông thì làm sao ông vua đa tình hiếm con này
liễu ngộ được. Khổ quá, ai bảo đòi biết ý Phật làm
chi. Cái tướng đa thù đã không còn mà ngay đến cái tướng
nhất như cũng không thấy nữa, ngay đến cũng không thấy
các đẳng đâu để hiện tướng bình nữa thì lấy đâu cửa
mà vào. Còn như nếu vua trở lại bốn câu Như Lai Thiền (Phản
văn...) để tìm cửa vào thì tới kiếp nào mới thành sư
tử. Như vậy, vấn đề của vua Lê cũng như của chúng ta
hôm nay là phải đi tìm chìa khóa (hay viên gạch dộng cửa)
để vào nhà Tổ.
Theo
quan niệm của chư Tổ là nói nhiều về viên gạch dộng cửa
thực sự không có lợi cho người muốn thực tham thực ngộ.
Riêng bốn câu thơ Ảnh Trầm Hàn Thủy cũng đã quá đủ rồi,
đi lối bặt đường chim không phải là đã à. Còn muốn chi
tiết hơn, đó là vấn đề của các dòng Lâm Tế, Tào Động,
Tây Tạng...
Nếu
bài này có chút gì sai hay ngã mạn với vua Lê, xin trọn lòng
sám hối. Nếu có chút gì công đức, xin biến cùng tận pháp
giới đưa tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.