19 CHÂN
TRỜI THIỀN
Khúc
Ca Chứng Đạo có 266 câu, 56 đoạn. Để tiện theo dõi, người
dịch xin chia làm 19 chân trời Thiền theo những tiết mục
như sau:
TIẾT
I : Như Lai Vô Thượng Thiền --
Đó
là thứ Thiền không tu không chứng, hiện thực bằng trí quán
chiếu vào thể tánh bình đẳng của sai biệt giới . Huệ
Năng giải thích: "Muôn pháp đều suốt thông, muôn pháp đều
sẵn đủ, tất cả chẳng nhiễm, lìa hết pháp tướng, chẳng
gì là sở đắc, đó gọi là Tối Thượng Thừa".
--
Chứng đạo : chứng vào thực tại của vũ trụ và nhân sinh.
--
Tuyệt học : Phật vị của đại thừa vô học.
--
Vô vi : " không làm nhưng không gì mà chẳng làm" (Lão Tử).
--
Nhàn : thanh nhàn, tự tại .
--
Vọng tưởng : hư vọng tưởng tượng.
--
Chân : chân tâm, chân lý, không trừ không cầu vì vọng và
chân , hai bình diện của tâm thể, tự nó dung thông nhau chứ
không gây chướng ngại cho nhau trong thế giới bình đẳng.
--
Vô minh : hiểu lầm. Trong tâm lý của sinh hoạt, hiểu lầm
thì mê sự (tham, sân, si, mạn, nghi: ngũ độn sử). Trong tâm
lý của tri thức, hiểu lầm thì mê lý (thân, biên, tà, kiến,
giới : ngũ lợi sử).
--
Pháp thân : thân chân thật, không sanh không diệt của Phật.
Nguyên lý tối hậu của muôn vật.
--
Không một vật : Lục Tổ Huệ Năng trong bài kệ chứng đạo
nói "bổn lai vô nhất vật". Đây không phải là một sự phủ
nhận, mà chính là một sự khẳng định tối hậu của giáo
lý "Trung Đạo".
--
Năm ấm : (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), ba độc : (tham,
sân, si) đều là ảo ảnh do tâm tạo ra .
--
Thực tướng : thực tại tối hậu của muôn vật.
--
Pháp, nhân : cặp đối đãi, ngoại cảnh và nội tâm, khách
thể và chủ thể.
--
Sát na : chớp nhoáng : thời gian của một ý nghĩ .
TIẾT
II : Cảnh Giới Tự Chứng --
Có
chứng Thiền Như Lai mới biết trong ấy có tất cả đức
tướng Như Lai : sáu độ (thí độ, giới độ, nhẫn độ,
tiến độ, thiền độ, huệ độ) và muôn hạnh, dùng làm
phương tiện của Bồ Tát giới . Quét sạch hết tạo tác
của tư tưởng (hành), đó là cảnh giới bặt hết mâu thuẫn
: tội phước, thêm bớt, thời gian không gian (sáu nẻo luân
hồi, ba ngàn thế giới); vậy nên đừng đuổi bắt gì hết,
đừng nắm lấy vật thể nào hết (bốn đại), mà cứ tự
nhiên thuận tánh (ẩm trác) trong sinh hoạt hằng ngày . Đó
là cảnh giới vô niệm, vô sanh, nhưng vô niệm không có nghĩa
là diệt niệm (lau tâm) vì tâm vốn vô nhiễm, không có gì
phải lau . Nếu hiểu vô niệm, vô sanh là bóp chết tâm hồn
và thể xác thì tốt hơn nên cầu đạo ở người gỗ, ở
cái bồ nhìn, hơn là đến cửa Thiền.
--
Chửa từng lau : trong bài kệ chứng đạo, Lục Tổ nói:
"Xưa
nay không một vật,
Bụi
còn bám vào đâu ?"
--
Vô niệm : Lục Tổ giải thích vô niệm là "ở nơi niệm mà
không niệm", có nghĩa là niệm mà không niệm, không niệm
mà niệm, tức tùy cảm tùy ứng mà niệm chớ không phải
thứ niệm (tư tưởng) duyên sanh. Thiền sư Thần Hội cũng
nói:
"Không
niệm niệm ấy tức niệm Chân Như
Không
sanh sanh ấy tức sanh thực tướng".
TIẾT
III : ĐẠI Ý CHÍ --
Phàm
dám đi con đường lớn phải cụ bị một ý chí kim cương.
Ý chí ấy biểu hiện bậc chân tăng. Với ý chí ấy, thiền
sư thưa rằng con đường Thiền của sư đi là đi thẳng vào
đất Như Lai, là khám phá chân lý (đạo) tự nguồn tâm gốc
tánh, còn việc tầm chương trích cú thuộc thế giới của
ảo tưởng, thì ngoài khả năng của sư . Tâm và tánh ấy
là ma ni châu (ngọc như ý), là kho Như Lai, có đủ trí, đủ
sáu thần dụng (sáu thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ
thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu
tận thông) ứng với sáu căn. Sáu căn tịnh thì tịnh luôn
năm mắt (ngũ nhãn : nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp
nhãn, Phật nhãn) và được năm lực phá trừ các chướng
ngại (ngũ lực : tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực,
huệ lực). Đó là chỗ không nghĩ bàn được. Điều ấy ví
như ta chuyển ngược ánh sáng vào nội tâm ắt ta dễ nhận
thấy cái "bổn lai diện mục" như ta thấy ảnh trong gương;
nhưng nếu ta phóng tâm ra ngoài tìm trăng (dụ cho viên giác)
trên mặt nước (dụ cho tự tánh) ắt mắc phải trạng thái
phân tâm, có chủ và khách biệt lập nhau, nên không thể chứng
bồ đề.
--
Không chẳng không, sắc chẳng sắc : siêu việt ngoài tri thức
suy luận. Đó không phải là phủ nhận, mà là "phủ nhận
cái phủ nhận" để đi đến cái khẳng nhận tối hậu trong
tam đoạn luận bát nhã này:
<<
không, bất không, không bất không. >>
TIẾT
IV : Con Đường Niết Bàn --
Con
đường Niết bàn là con đường đi chợ, ở đó phàm thánh
lẫn lộn qua lại, mà cũng là con đường tuyệt đối cô đơn
dành cho hàng long tượng của Phật pháp như có lần Bàng cư
sĩ hỏi Mã Tổ: "Ai là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn?"
. Muốn đi qua con đường ấy phải có bộ xương kim cương,
ẩn dưới thân hình tiều tụy (mạo tụy cốt cương), và
vì tiều tụy nên không ai để ý, mà cũng không tự mình để
ý đến mình. Đó là những người:
"Vào
nước không quậy sóng,
vào
rừng không động lá"
Bên
ngoài càng tiều tụy thì bên trong nội lực càng sung mãn,
châu báu cho mấy cũng không hết, thành tựu ba thân (pháp thân,
báo thân, hóa thân), hoàn tất tám cửa giải thoát (bát giải
thoát : nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc, nội vô sắc
tướng ngoại quán sắc, v.v...) chứng bốn trí (đại viên
cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, thành sở
tác trí), v.v... Tất cả những điều thân chứng ấy đều
là diệu dụng tự nhiên của tâm, nên cần quyết định thay
vì tìm ngoài, cần mạnh tay xé nát manh áo bẩn của tâm ý
thức che khuất tự tánh bồ đề (sở tri chướng).
--
"Bậc cao một quyết là xong hẳn ... " Lão tử nói: "Bậc cao
nghe đạo làm liền, bậc giữa nghe đạo nửa nhớ nửa quên,
bậc thấp nghe đạo cười dài . Không cười không đủ là
đạo"
TIẾT
V : Chuyển Phẩm Chướng Đạo Thành Phẩm Trợ Đạo --
Con
đường cầu đạo dẫy đầy chướng ngại, ở vật cũng như
ở người; tuy nhiên, chướng ngại là ở tâm, ở định kiến,
không phải ở ngoại giới . Hãy vận dụng tinh thần đại
vô úy chuyển biến tất cả nghịch cảnh làm lợi khí cho
mình. Được vậy, lời ác là công đức, lời gièm pha là
cam lộ, tất cả kẻ thù là thầy ta, mọi chướng ngại sẽ
tiêu tan và dung hòa (tiêu dung) trong cái không nghĩ bàn được.
Nhẫn nhục ba la mật là vậy .
TIẾT
VI : Tông Thông Thuyết Thông --
--
Tông là pháp Thiền.
--
Thuyết là mười hai bộ kinh.
Hễ
tông thông thì tùy duyên mà nói pháp, nói thuận nói nghịch
gì cũng là đạo . Đó là trạng thái tuyệt đối quân bình
giữa định và huệ, viên minh, siêu việt, không trệ ở không
chướng. Lúc đó thì thuyết là tiếng rống đầy hùng lực
của sư tử (biểu hiệu của Phật) làm rung động hết muôn
thú (biểu hiệu bầy ma vô minh), voi (biểu hiệu hàng tu tiệm
giáo) chạy dài, trong khi rồng thiêng (biểu hiệu hàng đại
thừa đốn giáo) lắng nghe, mừng gặp mưa pháp.
TIẾT
VII : Tâm Ấn Tào Khê --
Thiền
sư khổ công lặn lội khắp nơi tìm đạo, sau mới gặp Tổ
Tào Khê khai ngộ cho cái tâm "vô sanh", siêu việt ngoài sanh
tử. Đó là thấy tánh. Đã thấy tánh thì làm gì vẫn không
lìa tự tánh, hành động nào cũng tùy nghi mà hợp đạo, hợp
thiền, gặp cảnh sống nào (cả cảnh gươm đao độc dược)
vẫn giữ vẻ thản nhiên thanh thoát. Tổ Huệ Năng nói: "Người
thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, tùy
sự mà làm, tùy lúc mà nói, thấy khắp hóa thân, chẳng rời
tự tánh, tức đặng phép tự tại thần thông, du hí tam muội
... Người thấy tánh thì múa gươm giữa trận vẫn thấy tánh".
TIẾT
VIII : Tự Giác --
Đức
Phật Thích Ca, trước khi được Phật Nhiên Đăng thọ ký,
đã trải qua vô lượng kiếp tu hành nhẫn nhục. Theo gương
ấy, Thiền sư cũng phải trải qua bao lần sanh tử luân hồi,
và khi chứng pháp vô sanh, ngộ tự tánh, thì chớp thoáng tất
cả nỗi vui buồn của thế tục, thuộc cảnh giới hiện tượng,
đều bặt hết. Sư tìm đến cảnh thanh vắng ngồi tịnh nhằm
trưởng dưỡng "thánh thai", loại bỏ những vô minh vi tế
nhất kết từ vô lượng kiếp. Đó là tự giác, nói đúng
hơn, là chứng đến cảnh giới Bồ Tát, vì Thiền là bước
đầu -- và là bước đầu quyết định -- chớ không phải
là cứu cánh tối hậu như quả vị Như Lai .
Thiền
sư so sánh cảnh giới ấy với những việc làm hữu
vi của thế tục (bố thí) để cầu đạo, việc làm ấy đưa
đến kết quả hữu vi (sanh lên cõi trời), hưởng hết công
đức lại rơi về chỗ cũ, chẳng khác nào mũi tên bắn lên
trời, đi lên hết đà lại rơi xuống đất. Nên muốn cầu
đạo phải dùng pháp vô vi (không sở cầu, không sở đắc)
thì kết quả mới viên mãn, và viên mãn tức thì :
"Một
nhảy vào liền đất Như Lai".
TIẾT
IX : Giác Tha --
Tiếp
tục pháp vô vi, Bồ Tát tu hạnh giác tha, vừa tự lợi, vừa
lợi tha, mà không đâu có "tự" làm việc cho, và có "tha" làm
việc nhận. Đó toàn là những cảm ứng tự nhiên như trăng
soi dòng nước, như gió thổi cụm tùng, trong đêm trường
thanh vắng (biểu hiệu tâm thanh tịnh Niết Bàn) ; trăng không
vì nước mà soi, nước không vì trăng mà nhận, nước và
trăng đều vô tâm mà ứng hợp nhau trong cái thế duyên cảm
đại đồng, không "tại sao", không "để mà", không gì gì
hết (hà sở vi ?). Đó là lúc pháp nào cũng là pháp Phật
(mây ráng khoác làm y). Tâm tự nó là tịnh, là định, là
ngọc giới hạnh, là tâm ấn Phật. Tâm vào đâu là ở đó
u hiển lên, nên bình bát, tích trượng, đều là chứng tích
của Như Lai, trao truyền cho những sứ giả của Như Lai .
--
Tích
trượng : cây gậy Thiền, đầu có hai vòng tượng trưng
hai thừa, mỗi vòng có ba khoen, cộng chung sáu khoen, tượng
trưng sáu độ ba la mật của bồ tát giới .
--
Bát
hàng rồng : xưa, tại chùa Bửu Lâm, có con rồng thường
hiện lên mặt ao quấy phá. Sư Huệ Năng mở bình bát ra nói:
"Nếu là thần long, thì ngươi hiện lớn được, hiện nhỏ
được, ngươi dám hiện nhỏ chun trong bình bát này không?"
Rồng bèn hiện nhỏ, Sư chụp nó vào bình bát, nói pháp cho
nó nghe, rồi nó lột xương cốt đi mất.
--
Gậy
giải cọp : xưa, đời Nam Bắc triều, có một thiền sư
ngồi tịnh ở sơn động, bỗng nghe tiếng hai con cọp đấu
nhau trước chùa . Sư bước ra, định tâm nói pháp, nhưng cặp
hổ hăng máu không thèm nghe . Sư bèn vận dụng tâm "đồng
thể đại bi", dùng tích trượng chắn giữa cặp hổ, rẽ
đôi, rồi khiến mỗi con quày đầu ngược mà giải tán.
TIẾT
X : ĐẤT NHƯ LAỊ- Như Lai, sạch hết ngấn bụi tư duy,
chẳng phải là chân nên đừng cầu, chẳng phải là vọng
nên đừng diệt, chân và vọng. xét cùng ra, đều là
không, đều là vô tướng. Cái không tướng, không “không”
không bất không ấy là tướng thực của Như Lai, và cũng
là thực tại tối hậu của muôn vật, vượt ngoài tất cả
phạm trù tư tưởng, và chỉ hiện thực trong tâm giác ngộ.
Tâm ấy vi như một phiến gương phản chiếu toàn thể thế
giới, bao dung vô ngại; toàn thề vũ trụ hiện trong tâm ấy
- một điểm linh quang chiếu diệu, viên dung tất cả, không
trong không ngoàị
Cũng
đừng nên níu cái không mà bác bỏ lí nhân quả, hoặc trừ
cái có mà dính vào cái không, hoặc buông vọng tâm mà giữ
chân lí, những thể đối đãi ấy, không hề có trong đất
Như Lai, càng gây họa, làm thế khác nào sợ nước nhảy vào
lửa, hay rước giặc vào nhà làm con nuôị Đem cái tâm thủ
xả ấy ra tu hành ắt rơi vào những tạo tác của tám (đệ
bái thức) í và thức, chỉ tổ làm hao tốn pháp tài và công
đức. Do đó, Thiền Tông chỉ thẳng vào tâm, đốn ngộ lí
vô sanh, đốn chứng tri kiến Phật.
vô
tướng : chân lí thuần túy sau khi xà trừ hết bóng dáng.
Cũng nói “ở nơi tướng mà lìa tướng gọi là vô tướng”.
Đây chỉ diệu minh chân tâm.
Vô
không : tức là hữu
Vô
bất không: tức là không. Nói chung thì diệu minh chân tâm
bao dung cả “hữu” và “không”; thêm một bước nữa,
bằng cú pháp via negativa, thì đó là cái
Vô
không vô bất không, quét sạch hết tương đối pháp, và
hiển xuất cái diệu lí tuyệt đối : Như Lai
Pháp
tài : Tài có tiền tài và pháp tàị Tiền tài nuôi sắc
thân, pháp tài nuôi pháp thân
Công
đức : kết quả của những việc làm thiện
Tri
kiến : cái biết thấy vô thượng của Phật. Phật
nói kinh là mở tri kiến Như Lai (Pháp Hoa)
TIẾT
XI : HÀNH NHƯ LAI SỰ.- Đã là sứ giả của Như Lai phải
lấy í chí của Như Lai làm chí của mình, phải lấy hành
vi của Như Lai làm hành vi của minh. Với tinh thần vô úy ấy,
trong chí quyết đại hùng, đại lực ấy, đại trượng phu
vung gươm trí huệ kim cương đánh bạt hết ngoại đạo và
thiên mạ Trong công tác quảng hành lục độ ấy, bồ tát
đánh pháp lôi, nổi pháp cổ, bủa tứ vân, rưới cam lộ,
tuyên dương tối thượng thừa, thúc giục hàng đốn giáo
(long tượng) hàng tiệm giáo (năm tánh ba thừa) mau thức tỉnh
trên thực tại tối thượng, trên quả vị Phật.
--Năm
tánh : vô chủng tánh (của ngoại đạo), bất định tánh
(lừng khừng, của phàm phu) thanh văn tánh, duyên giác tánh
và Như Lai tánh
--Ba
thừa : Thanh văn thừa, Duyên giác thừa (tiểu thừa và
bồ tát thừa (đại thừa). Ba thừa giả lập nầy điều bị
phá để đưa đến Phật thừạ
TIẾt
XII : Vô Trụ Niết Bàn --
Tương
truyền trên Tuyết Sơn (dụ cho pháp giới) có một loài bò
duy nhất (thanh tịnh ngưu : dụ cho Pháp thân) ăn thứ cỏ duy
nhất (phì nhị :thiền duyệt), sanh ra thứ sữa duy nhất (
đề hồ : pháp thực), ai ăn được thứ đề hồ ấy là thành
Phật, chứng Niết Bàn (coi kinh Niết Bàn)
Pháp
Phật là thứ sữa đề hồ ấy, thiền sư đã nếm qua và
chứng "diệu tâm Niết Bàn". Đó là cảnh giới dung thông vô
ngại, trong ấy một tánh viên thông tất cả tánh, một pháp
chứa đủ tất cả pháp. Ví như một mắt trăng chiếu sáng
trên vô số mặt nước sông hồ thành vô số mặt trăng. Một
tức tất cả. Và tất cả trăng thâu nhiếp vào một mặt
trăng. Tất cả là một. Cái lẽ "tịch chiếu bất nhị" là
vậy . Trăng thì tịch nhưng "năng" chiếu thành vô số trăng.
Vô số trăng dù rằng "sở" chiếu vẫn không lìa tịch, nên
vẫn dự vào thể tánh thanh tịnh của vừng trăng MỘT. Cũng
vậy, tất cả pháp thân Phật thể nhập trong tánh chúng sanh
thành vô lượng báo thân và hóa thân Phật, thành vô lượng
lý và sự pháp giới . Và tất cả pháp giới, vật chất và
tinh thần, và "phi tưởng phi phi tưởng", đều tương ứng
tương hợp với pháp giới của Phật, với thực tại đại
đồng: Như Lai .Toàn thể Hoa Tạng pháp giới đều biến chiếu
tự thể tánh Như Lai . Nên không đâu có Như Lai mà đâu đâu
cũng là Như Lai: Biến Chiếu Như Lai . Niết Bàn không có ở
đâu cả mà đâu đâu cũng là Niết Bàn: Vô Trụ Niết Bàn.
Cũng vậy, chứng một địa là chứng tất cả địa (thập
địa bồ tát :mười giai đoạn tu chứng), vì trong một địa
gồm đủ tất cả địa, không phải là vật, không phải là
tâm, mà cũng không phải là thành quả của nghiệp. Trong tinh
thần ấy, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều thành tựu trong
búng tay, chớp nhoáng xóa bỏ vọng tưởng nghiệp báo, không
gian thời gian (ba kỳ kiếp). Đó là cảnh giới "bất nhị",
không liên quan gì đến tư tưởng và ngôn ngữ, nên khen cũng
thừa, chê cũng thừa, không bỏ được mà cũng không nắm
được, vắng lặng, linh minh, mà vẫn không lúc nào lìa cái
hiện tiền, cái hiện sanh của hiện tượng giới (đương
xứ). Muốn chứng vào đó phải đi đến chỗ cùng lý tuyệt
tình, phải húc đầu vào cái "vô sở đắc" tối hậu cũng
tức là cái sở đắc tối hậu; nói một cách khác, tuyệt
lộ "tức" giải thoát; cũng vậy, phiền não tức bồ đề,
chớ không phải ngoài phiền não có bồ đề nào khác. Chứng
đến đó gọi là Đốn, sau một bước nhẩy hư diệu giữa
hư vô, thì mặc tình muốn nói thì nói, muốn im thì im, nói
tức là im, im tức là nói, tùy duyên hoặc nói hoặc im, mở
cửa từ bi thí pháp không trệ vào đâu hết. Đó là tâm không
-- không không, rốt ráo không -- của hệ thống Bát Nhã, không
thể nói là "thị" (chấp nhận) hoặc "phi" (phủ nhận) theo
tri thức thường, mà chỉ tùy cảm mà ứng dụng ngoài tất
cả tiêu chuẩn thuận và nghịch của người đời .
TIẾT
XIII : Truyền Tâm Pháp Yếu --
Dựng
cao lá phướn của Phật pháp, nêu cao ý chỉ của Thiền Tông,
thiền sư nay biểu dương tâm ấn Phật được mật truyền
từ đức Thế Tôn đến Tổ Tào Khê; như một ngọn đèn truyền
qua một ngọn đèn, truyền mãi không dứt. Trước hết từ
hội Linh Sơn, Phật truyền tâm ấn cho Ca Diếp, A Nan, ... đến
Bồ Đề Đạt Ma là 28 vị Tổ Tây Độ; Tiếp theo là 6 vị
Tổ Đông Độ (Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng
Nhẫn, Huệ Năng), và sau đó nhiều vô số kể.
Yếu
chỉ của phép truyền tâm ấy là quét sạch tất cả đối
thể mà cũng không nêu lên làm định lý một cái chân nào,
vì cái chân nào cũng bao hàm cái giả, cả chân và giả chỉ
có trong ảo giới, cũng như hữu và không, bất không không.
Cả đến 20 cửa không của biện chứng Bát Nhã Niết Bàn
(nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không ...
vô tánh tự tánh không) vẫn không chấp trước vì tất cả
đều bình đẳng nhau, và dung thông vô ngại trong thể tánh
Như Lai . Cả đến tâm (căn = giác quan) và đối tượng của
giác quan (trần = bụi, ngoại giới) đều là hư giả như bụi
đóng mờ gương, hễ bụi hết thì gương sáng lại; đó là
lúc thành tựu thể tánh Như Lai, tâm và pháp, chủ thể và
đối tượng, đều dứt trọn cả hai .
TIẾT
XIV : Ma Chướng Thời Mạt Pháp --
Thời
chánh pháp đã xa rồi, chân lý bị đắm chìm trong ác nghiệp
quá nặng. Ma (tà kiến) ngày càng mạnh, còn pháp (chánh đạo)
ngày càng thiếu chân truyền. Thế nên có người nghe nói phép
Thiền Tông đốn ngộ cho là ma giáo và lập tâm nghiền nát.
(Trường hợp này rất nhiều, như Đạt ma bị đầu độc,
Thần Hội bị vu hãm vào tù đầy, Đức Sơn lặn lội lên
tận Long Đàm toan quét sạch thiền lâm của Tổ Sùng Tín,
v.v...) Những xuẩn động ấy sẽ gây nghiệp quả cho thân
và tâm, đừng kêu oan, hãy tự trách mình mê muội .
Muốn
tránh những khổ lụy vô lối ấy chỉ cần đừng phỉ báng
Bánh Xe Chánh Pháp của Thiền Như Lai .
TIẾT
XV : Khí Tượng Phật Thừa --
Thiền
là cây gỗ hương chiên đàn : chiên đàn mọc ở rừng nào
là các loại cây tạp nhạp không mọc được vì tạp thụ
mang khí lượng nhỏ hẹp không chịu nổi mùi hương chiên
đàn.