MỤC
LỤC
Lời
Dịch Gỉa
Luận
Tổng Quát: Thế Nào Gọi Là Thiền
Chương
I: Cội Nguồn Truyển Thừa
Trang
01-1
Trang
01-2
Chương
II: Yếu Chỉ Thiền Tông
Trang
02-1
Trang
02-2
Trang
02-3
Trang
02-4
Chương
III: Thỉnh Ích (Hỏi Đạo)
Phụ
Lục: Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngoạ Xứ Bi Văn
LỜI
DỊCH GIẢ
Quyển
sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng
rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên
soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào
nên làm giảm giá trị quyển sách. Người biên soạn hình
như không có tham thiền, đối với Phật pháp cũng chưa được
thông thạo, chỉ đem những tác phẩm như Tham Thiền Tu Pháp,
Nguyệt Khê Ngữ Lục, Phật Pháp Vấn Đáp Lục, Đại Thừa
Bát Tông Tu Pháp của ngài Nguyệt Khê gom lại thành quyển
sách này, trong đó lại thêm vào những lời của giáo môn
và ý kiến của tự mình, nghịch với ý chỉ của ngài Nguyệt
Khê mà chẳng tự biết, mà người biên soạn chỉ biết giữ
bản quyền, không cho người khác in lại, đối với văn tự
trong sách, do người sắp chữ sắp lộn, có rất nhiều chỗ
lời sai chữ trật cũng vẫn để y nguyên mà không dò lại
và sửa cho kỹ.
Chúng
tôi vì muốn giữ đúng ý chỉ của ngài Nguyệt Khê mà chẳng
di hại cho người đọc nên lược bỏ phần nghịch với chỉ
của tác giả và giảm bớt những lời trùng nhau.
Nguyệt
Khê thiền sư đã tịch năm 1965, sách này được in năm 1971.
Cuốn
sách này có một bài đề mục là Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngọa
Xứ Bi Văn (tiểu sử), soạn năm 1971, soạn giả tự xưng là
Trí Viên, trong đó không đề cập sự viên tịch của ngài
Nguyệt Khê, nên chúng tôi dịch thêm tiểu sử của Ngài do
Mục sư Vương Cảnh Khánh soạn. Dù chúng tôi giữ thái độ
thận trọng trong việc phiên dịch quyển sách này, nhưng vẫn
có thể còn nhiều chỗ sơ sót, xin độc giả hoan hỷ chỉ
giáo cho.
LUẬN
TỔNG QUÁT
Thế
nào gọi là Thiền?
I-
ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.
Thiền
Na là tiếng Ấn Độ, xưa dịch là Tư Duy Tu, sau dịch là Tịnh
Lự, gọi tắt là Thiền.
Trước
đời Phật Thích Ca, có ông Phất Đang La (Nirgranto Jnati Putra)
đã sáng lập giáo phái Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện.
Sau này Phật Thích Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm
cũng gọi là Thiền Na. Kỳ thực hai chữ Thiền Na chỉ là
một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.
Ngôn
giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại thừa, Tiểu thừa đều
lấy Tu Thiền làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi
đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên gọi dù đồng nhau,
nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như Mười
Hai Tịnh Pháp Thiền của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
của Bà La Môn đều khác; nói về Thiền của Phật giáo như
Lục Độ Thiền của Đại thừa, Tứ Đế và Thập Nhị Nhân
Duyên của Tiểu thừa đều khác nhau. Còn Bất Lập Văn Tự
Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt
truyền”, là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca
Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Phái
Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập
văn tự lý luận, nên gọi là Thiền tông, khác hẳn với các
phái Thiền kia.
Thiền
tông ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất
là thịnh vượng, truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến
khắp nơi. Cho nên người ta nói đến hai chữ “Tham Thiền”
đều chỉ pháp Thiền của Thiền tông này. Kỳ thật ở trong
Phật giáo, từ Tiểu thừa cho đến Đại thừa, các tông các
phái mỗi mỗi đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và
phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực
mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta muốn
lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là
rất khó, nhưng quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền
của tổ Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Do đó chúng ta chỉ
có thể dựa theo tông chỉ của Thiền tông, giả thiết một
định nghĩa cho chữ Thiền.
Theo
pháp tu thông thường, đối với khái niệm của chữ Thiền
là từ nhân đến quả, tức là từ nhân vị theo thứ lớp
tu tập cho đến chứng quả thành Phật, đều là những phương
pháp Tiệm tu. Nhưng theo khái niệm của Thiền tông thì chẳng
phải vậy, vì đường lối thực hành của Thiền tông là
pháp trực tiếp, ngay đó hiện thị quả Phật. Chư Tổ nói:
“Thấy phải thấy ngay, suy nghĩ là sai”. Kỳ thật quả đã
được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho
nên nói là Thiền Đốn Ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn
Ngộ là “Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật”.
Tại
sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn
tự là một tên gọi giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới
có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, còn
bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự
thực tế rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng dùng kinh nghiệm
suy nghĩ mà đến được, vậy cách gián tiếp ngôn ngữ văn
tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật Thích
Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng nói một chữ”,
lại nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng,
nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải
mặt trăng”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay để chỉ
mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một
việc gián tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một
phương pháp để đạt đến bản thể chơn tâm, nhưng chẳng
bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại
sự chỉ thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến
đời sau, có người lại nhận lầm cho ngón tay tức là mặt
trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của Thiền
tông bèn tùy nhu cầu thực tế mà ra đời, đồng thời phát
triển rộng khắp mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng
chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị của văn tự vẫn được
chư Tổ của Thiền tông chú trọng, cũng như tổ Đạt Ma dùng
kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học.
Thế
Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại
chúng đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế
Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm,
Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu, Chẳng lập văn
tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”.
Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền tông căn cứ theo
việc này lấy Tâm truyền Tâm.
Phương
pháp trực tiếp biểu thị trực tiếp này, Phật Thích Ca đã
dùng qua nhiều lần, cũng như Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy
Sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương rằng: Hạt châu này màu
gì?
Khi
ấy Ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả
lời màu sắc khác nhau.
Thế
Tôn giấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp: Hạt châu
này màu gì?
Các
Thiên Vương nói: Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu
còn màu gì!
Thế
Tôn nói: Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt
châu thế gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta
thị hiện hạt châu chơn thật thì chẳng biết gì cả!
Khi
ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.
Lại
một hôm khác, ngoại đạo hỏi Thế Tôn: Không hỏi có lời,
không hỏi không lời?
Thế
Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn
đại từ đại bi, khai phá đám mây mê muội cho con, khiến
con được ngộ nhập”, đảnh lễ rồi ra đi.
Ngài
A Nan hỏi Phật: Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?
Thế
Tôn nói: Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền
chạy nhanh.
Việc
giấu hạt châu rồi đưa tay và im lặng giây lâu đều là
phương pháp trực tiếp chỉ thị bản thể của Chơn tâm,
chẳng phải chỉ có một việc “Niêm hoa thị chúng” mà
thôi!
“Chẳng
lập văn tự” chẳng phải tuyệt đối phế bỏ văn tự,
nếu Phật Thích Ca phế bỏ văn tự thì Tam tạng kinh điển
từ đâu mà ra? Nếu tổ Đạt Ma tuyệt đối phế bỏ văn
tự thì chẳng nên dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học.
Thiền tông nói chẳng lập văn tự, bất quá dùng để sáng
tỏ phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp vốn
là khác nhau mà thôi.
II-
PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI.
Loài
người đời Thượng Cổ ngu mê ngoan cố, trí tuệ bị vô
minh che khuất, linh tánh bị ngũ uẩn tam độc chi phối, sống
trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn viên mãn, giống
như quặng thất bửu ẩn giấu dưới đất, chỉ đợi người
khai phá ra. Sau này trí thức mở mang, trước tiên đối với
hiện tượng thế giới cảm thấy đủ thứ kỳ lạ và nghi
hoặc, rồi sanh tâm cầu bí mật của vũ trụ, hy vọng được
giải thích cho rõ ràng, kế đó trở lại tìm hiểu tự tâm,
muốn truy cứu nguồn gốc của sự biến hóa chẳng ngừng,
sau cùng mới được nhờ sức trí tuệ Bát nhã, mong chứng
nhập cùng tột rốt ráo của Bản thể tự tánh để vượt
ra ngoài sanh tử luân hồi, ấy tức gọi là việc minh tâm
kiến tánh thành Phật vậy.
Ý
nghĩa của hai chữ Như Lai là bổn lai như thế, vì Phật tánh
và pháp Thiền vốn sẵn đầy đủ, khắp không gian và thời
gian, diệu dụng vô biên, nên Phật Thích Ca thường dùng hai
chữ Như Lai để đại diện cho bản thể Phật tánh và diệu
dụng, triệt để thấu rõ ý nghĩa của hai chữ Như Lai và
giá trị chơn chánh của pháp thiền.
III-
SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC.
Người
ta thường hay nhận lầm Thiền học tức là Hình nhi thượng
học của Triết học Tây phương, thật ra thì chẳng đúng.
Bởi Hình nhi thượng học là một môn học để giải thích
bản thể của vạn hữu, mà pháp Thiền là phương pháp dùng
để chứng nhập bản thể của vạn hữu. Hình nhi thượng
học dù muốn giải thích bản thể của vạn hữu, nhưng vì
bản thân của người nghiên cứu chưa chứng nhập bản thể,
cho nên chẳng có cách nào chơn chánh để nhận biết bản
thể và giải đáp một cách đầy đủ triệt để. Thật bản
thể này chẳng phải dùng kinh nghiệm suy tư có thể đạt
đến, như kinh Viên Giác nói: “Dùng tâm suy tư để đo lường
cảnh giới của Như lai, như lấy lửa đom đóm để đốt
núi Tu di thì làm sao cháy được!”
Học
giả Tây phương đối với vấn đề chơn thật siêu việt
kinh nghiệm xưa nay chẳng có cách nào để giải quyết, như
các nhà triết học Emmanuel Kant (1724 – 1804) bèn cho trí thức
năng lực của con người chỉ có thể nhận biết thế giới
tương đối trong phạm vi cảm giác suy tư, đối với cái bản
thể thế giới tuyệt đối siêu việt kinh nghiệm suy tư thì
chẳng có cách nào để nhận biết được, lại có người
cho rằng việc này chẳng cần nghiên cứu nữa, rồi chuyển
hướng hết lòng để nghiên cứu khoa học. Nhưng đại đa
số học giả vẫn cho là trong thế hệ Triết học chẳng thể
thiếu sự nghiên cứu Hình nhi thượng học, bất quá chẳng
lấy bản thể tuyệt thể tuyệt đối làm đối tượng nghiên
cứu, chỉ lấy lý luận căn bản của sự vật để làm vấn
đề nghiên cứu mà thôi. Cho nên trong Triết học Tây phương
chỉ có bản thể luận tương đối, chẳng có bản thể luận
tuyệt đối.
Từ
xưa nay trải qua mấy ngàn năm, học giả Tây phương đều
hướng vào kinh nghiệm suy tư để làm công phu, chẳng những
không được chứng nhập bản thể siêu việt kinh nghiệm suy
tư, lại nghiên cứu sâu chừng nào thì xa lìa bản thể nhiều
chừng nấy, cái nguyên do là thiếu một phương pháp để chứng
nhập bản thể.
Sự
Tham Thiền chẳng phải trực giác, trực giác là do tác dụng
của bộ não thần kinh, bộ não thần kinh chẳng biết được
Phật tánh. Các học giả Tây phương chỉ tùy theo kinh nghiệm
trong vật chất, chọn cái nào là căn bản nhất để làm cái
nguồn gốc của vạn vật mà thôi.
Trong
lúc nhà triết học Hy Lạp đang dùng kinh nghiệm suy tư để
truy cứu nguồn gốc của vạn vật, thì Phật Thích Ca phát
minh được phương pháp để trực tiếp chứng nhập bản thể,
siêu việt kinh nghiệm suy tư đã mấy ngàn năm. Cho nên pháp
Thiền của Phật Thích Ca thật là một phát minh lớn nhất
của loài người, giá trị ấy thật chẳng thể đo lường.
Từ
khi Phật Thích Ca phát minh pháp Thiền trực tiếp chứng nhập,
người tu theo pháp này được kiến tánh thành Phật (chứng
nhập bản thể) đã vô số kể, chỉ nói về Trung Quốc, người
được kiến tánh, được ghi trong các Truyền Đăng Lục đã
hơn bảy ngàn người, còn những người đã kiến tánh mà
chưa được ghi vào thì chẳng biết là bao.
IV-
MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM THIỀN.
Bản
thể tức là việc rất thực tế rốt ráo, nhà Phật gọi
là Thật tướng, cũng gọi là Chơn như Phật tánh, tên gọi
rất nhiều, đều tùy dụng mà đặt danh, cái ý nghĩa của
bản thể này với bản thể của nhà Triết học Tây phương
khác nhau, muốn chứng nhập bản thể, ngoài Tham Thiền chẳng
có cách khác.
Nhà
Triết học Tây phương đối với vấn đề bản thể chỉ
có một thái độ nghiên cứu để nhận biết, nhà Phật đối
với Chơn như Phật tánh thì tỏ ra một thái độ thọ dụng
thực tế. Vì người Tham Thiền một khi được chứng nhập
bản thể tức là kiến tánh thành Phật, ra khỏi sanh tử luân
hồi, được sự thọ dụng lớn (tự do, tự tại vĩnh viễn),
mục đích của người học Phật là vậy. Nên bất cứ Tông
phái nào trong Phật giáo đều lấy pháp Thiền làm căn bản,
đồng thời căn cứ theo pháp Thiền đó có thể khiến người
kiến tánh hay không mà phân biệt cao thấp. Như Tiểu thừa
dứt lục căn, phá ngã chấp mà lọt vào pháp chấp; Trung thừa
phá pháp chấp mà lọt vào không chấp, ấy đều chưa thể
chứng nhập bản thể, chẳng được kiến tánh thành Phật.
Đại thừa Bồ tát phá không chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt
đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng, phương pháp
của Thiền tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận
để đạt đến, mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng
nhập, gọi là Đốn ngộ thành Phật.
Xem
Tiếp Trang Kế: Chương I: Cội Nguồn Truyển Thừa