|
.
CỘI NGUỒN
TRUYỀN THỪA &
Phương Pháp
Tu Trì Của Thiền Tông
Nguyên
Tác: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch giả: Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Đường, Anaheim, California Hoa Kỳ Xuất Bản 1991 PL
2535
|
|
33/
Lầm Nhận “Ngồi Nhập Định Như Cây Khô” Thành Bệnh:
Nói
“nhập định” là pháp dụng công của người Tiểu thừa,
ngồi lâu như cây khô để đoạn dứt suy nghĩ của lục căn,
dụng công của Đại thừa chẳng trụ tâm, chẳng khán tịnh,
chẳng trầm không, chẳng nhập định. Nay thường có một
số người xuất gia hoặc tại gia, ngồi không như cây khô,
mười hôm, tám hôm chẳng ăn cơm, giống như ông Địa, gọi
là nhập định, cho dụng công như thế thì được thành Phật,
ấy là sai lầm lớn.
Xưa
kia Trí Hoàng thiền sư ngồi mãi trong am 20 năm, Huyền Sách
thiền sư đến am hỏi: Ông ở đây làm gì?
Hoàng
nói: Nhập định.
Sách
nói: Ông nói nhập định là có tâm nhập hay vô tâm nhập?
Nếu vô tâm nhập thì tất cả vô tình, cây cối, ngói đá
đều được đắc định; nếu có tâm nhập thì tất cả chúng
sanh hữu tình cũng phải đắc định.
Hoàng
nói: Khi tôi đang nhập định chẳng thấy có tâm hữu hay vô.
Sách
nói: Chẳng có tâm hữu hay vô tức là thường định, đâu
có xuất nhập? Nếu có xuất nhập thì chẳng phải đại định.
Hoàng
chẳng thể trả lời, giây lâu nói: Sư nối pháp ai?
Sách
nói: Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ đại sư.
Hoàng
hỏi: Lục Tổ lấy gì làm thiền định?
Sách
nói: Thầy tôi nói “Diệu trạm viên tịch, thể dụng như
như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi hữu, chẳng xuất chẳng
nhập, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, lìa trụ
nơi thiền định, tánh thiền vô sanh, lìa sanh có thiền tưởng.
Tâm như hư không, cũng chẳng có số lượng của hư không”.
Bởi
sau khi kiến tánh, tự tánh như như bất động, đi, đứng,
nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, tất cả đều ở trong định
mới là đại định.
Hoài
Nhượng thiền sư ghi trong Truyền Đăng Lục rằng:
Có
Sa môn Đạo Nhất ở viện Truyền Pháp suốt ngày tọa thiền,
Sư (Hoài Nhượng) đến hỏi: Đại đức tọa thiền muốn
làm gì?
Nhất
nói: Muốn làm Phật.
Sư
lấy cục gạch mài trước cửa am.
Nhất
hỏi: Mài gạch làm gì?
Sư
nói: Mài gạch làm gương.
Nhất
nói: Mài gạch đâu thể làm gương!
Sư
nói: Mài gạch chẳng thể làm gương thì tọa thiền đâu thể
thành Phật!
Nhất
nói: Vậy phải làm thế nào?
Sư
nói: Như bò kéo xe chẳng chịu đi, đánh xe phải hay đánh
bò phải?
Nhất
không đáp được.
Sư
nói: Ông học ngồi thiền hay học làm Phật? Nếu học ngồi
thiền thì thiền chẳng phải ngồi, nằm; nếu học làm Phật
thì Phật chẳng có tướng nhất định, nơi pháp vô trụ,
chẳng nên thủ xả. Ông nếu ngồi Phật tức là giết Phật,
nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt lý đạo.
Nhất
nghe sư dạy bảo như uống nước đề hồ.
Ngài
Lâm Tế nói: “Ta nói bên ngoài chẳng có pháp, người học
chẳng hội, lại hiểu lầm cho là bên trong, liền hướng vách
ngồi không, lưỡi để hàm trên, trạm nhiên chẳng động,
cho đó là Phật pháp của chư Tổ, rất là sai lầm”.
Một
số người lầm nhận tham thiền phải lúc tĩnh tọa mới tham,
ấy là sai lầm. Tham thiền chẳng phân biệt đi, đứng, nằm,
ngồi. Mã Tổ nói: “Tham thiền chẳng chấp ngồi, chấp ngồi
tức bị dính mắc”. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ mê kẹt
nơi pháp tướng, chấp Nhất hạnh Tam muội, cứ nói thường
ngồi chẳng động, vọng tâm chẳng khởi tức là Nhất hạnh
Tam muội, hiểu như thế này tức đồng như vô tình, lại
thành nhân duyên chướng đạo”.
34/
Chấp “Bất Đảo Đơn” Thành Bệnh:
Trong
Tùng lâm có một số hành giả ngồi mãi chẳng nằm, gọi
là bất đảo đơn. Dù nói bất đảo đơn, lại ngồi có ngủ
gục, cho đó là công phu nổi bật, sai lầm biết bao!
Theo
giới luật của Phật, Tỳ kheo tu hành bốn việc đầy đủ
là: quần áo, ăn uống, ngọa cụ, y dược, vậy chứng tỏ
Phật chẳng dạy người bất đảo đơn. Nếu ngồi không ngủ
gục, sao chẳng nằm xuống ngủ một giấc ngon, cho tinh thần
đầy đủ rồi công phu lại! Có người chê cười kẻ bất
đảo đơn là nhập định bí đao, chưa nhập định đã biến
thành bí đao, dù thành Phật có ích lợi gì!
Ngài
Lâm Tế nói: “Dẫu cho ở cô độc trên đỉnh núi, ngày ăn
một bữa, ngồi mãi chẳng nằm, suốt ngày hành đạo, đều
là người tạo nghiệp, cho đến đem đầu, mắt, tủy, não,
gia tài, vợ con, voi, ngựa, thất bửu thảy đều bố thí,
có kiến giải như thế đều là tự làm khổ cho thân tâm,
lại tự chiêu cảm quả khổ, chẳng bằng người vô sự chẳng
làm việc gì, thuần nhất chẳng nhiễm, như Thập Địa Mãn
Tâm Bồ tát đều cầu đạo này, tìm dấu tích trọn bất
khả đắc, cho nên chư Thiên hoan hỷ, Địa Thần ôm chân,
mười phương chư Phật cùng nhau tán thán. Tại sao như thế?
Vì đạo nhơn này chỗ dùng chẳng dấu tích”.
Phật
Nhãn thiền sư nói: Gần đây có người chỉ ham ngồi, ban
sơ thì tĩnh bơ, ngồi lâu thì ngủ gục, mười người có
chín người ngồi ngủ gục, luôn luôn chẳng chịu hạ thủ
công phu tham cứu, đạo này đâu thể trong ngồi ngủ mà ngộ
được! Những người như thế làm sao hội được. Đơn Hà
dựng phất trần, Bàng cư sĩ giơ cây búa, Đơn Hà quăng phất
trần, cư sĩ buông cây búa xuống! Lại nói: “Công án hôm
qua như thế nào? Đơn Hà nằm xuống, cư sĩ liền ra đi, việc
này chẳng phải người tri âm chơn thật, đâu thể cho ông
chú giải bậy bạ được!”
Lại
ngài Nham Đầu nói: “Bậc Sa môn tất cả đều nên mỗi mỗi
từ trong lòng mình lưu xuất, che thiên ngập địa mới được,
đâu thể do tĩnh tọa suy nghĩ mà được đâu!” Tiên sư (Pháp
Diễn thiền sư) nói: “Lúc ngủ lúc ngủ tham cứu, lúc ăn
cơm lúc ăn cơm tham cứu”. Lại người xưa nói: “Lúc ngồi
có đạo lý lúc ngồi, lúc đứng có đạo lý lúc đứng”,
há chẳng thấy Đầu Tử hỏi Thúy Vi rằng: Mật chỉ từ
Ấn đến, có thể cho nghe chăng?
Thúy
vi đứng đó ngó nhìn, Đầu Tử nói: Đem mai nói nữa, xin
sư tái chỉ.
Thúy
Vi nói: Còn muốn thêm gáo nước độc thứ hai chi nữa!
Đầu
Tử liền ngộ.
Thế
thì các ngươi chẳng được thọ dụng là tại ngày đêm ngồi
không, bỏ qua việc tốt biết bao!
35/
Tham Thiền Lầm Nhận “Chăn Trâu” Là Dụng Công:
“Chăn
trâu” là sau khi đã kiến tánh dùng để tẩy trừ tập khí,
điều chỉnh tánh tình, chẳng phải là tu hành. Bởi khi đã
kiến tánh, nhất ngộ vĩnh ngộ, chẳng cần tu nữa, nhưng
vẫn còn tập khí chưa dứt sạch, nên cần phải điều chỉnh
lại. Qui Sơn hòa thượng nói: “Các ngươi nếu đã hoát nhiên
thông suốt thì tu với chẳng tu là lời hai đầu, chỉ cần
trừ bỏ tập khí gọi là tu”.
Xưa
kia trong hội Qui Sơn có Đại An thiền sư nói: “Ta ở Qui
Sơn 30 năm, ăn cơm Qui Sơn, ỉa cứt Qui Sơn, mà chẳng học
thiền Qui Sơn, chỉ chăn một con trâu, nếu lạc đường vào
đám cỏ liền kéo ra, nếu phạm lúa mạ của người liền
lấy roi điều phục, như thế lâu ngày, nay biến thành con
lộ địa bạch ngưu (Chơn như Phật tánh), thường ở trước
mắt, suốt ngày luôn luôn hiển lộ rõ ràng (Phật tánh hiện
hành), đuổi cũng chẳng đi”. Phổ Minh Thiền Sư Mục Ngưu
Đồ, lấy vọng niệm dụ con trâu, Phật tánh dụ cho người
chăn trâu, vọng niệm khởi như con trâu chạy bậy, đem vọng
niệm sửa thành chánh niệm, như cỡi trâu về nhà, nói trở
về bản nguyên, ấy là sai lầm. Con trâu dụ cho vọng niệm
thì không sai, người chăn trâu dụ cho Phật tánh thì sai, người
chăn trâu nên dụ cho kiến, văn, giác, tri, chẳng phải Phật
tánh, Phật tánh chẳng khởi vọng niệm.
36/
Tham Thiền Lầm Nhận Tệ Đoan Của Thiền Là Dụng Công:
Cổ
Đức có luận về tệ đoan của thiền rằng: “Từ đời
Tống đến nay, tệ đoan của thiền đặc biệt nhiều, nay
thử đề ra có loại gọi là xướng họa tọa thiền, công
án tọa thiền, niệm Phật tọa thiền, ông địa tọa thiền,
điều phục tọa thiền…”
Nói
xướng họa tọa thiền là: người thầy lấy một câu thoại
đầu truyền thọ cho người học, người học vừa ngồi vừa
xướng, ví như truyền cho một chữ vô của Triệu Châu, thì
tất cả chúng người học cũng xướng lên “vô, vô, vô,
vô, vô…”, giống con tú hú kêu mưa vậy. Nếu truyền cho
núi tu di của Vân Môn, thì bọn chúng cùng nhau xướng lên
“núi tu di, núi tu di…”, giống như con ve kêu. Nếu như thế
được khai ngộ thì con tu hú với con ve cũng được khai ngộ.
Còn
công án tọa thiền thì người thầy truyền cho một công án,
bảo người học làm công phu, làm rồi lại đến trình thầy,
thuật lại cảnh giới của mình thấy, nếu hợp với ý thầy
thì được ấn khả chứng minh, rồi truyền cho một công án
khác. Từ công án này qua công án kia, gọi là “Thấu công
án”, ngoài ra còn bày đặt việc kỳ dị, dùng lời nói tỏ
vẻ quái lạ, như trong mộng nói mơ, chẳng biết hổ thẹn,
cũng như con khỉ vượn chụp trăng nước. Nếu làm như thế
mà đắc đạo thì con khỉ vượn cũng đắc đạo.
Còn
niệm Phật tọa thiền thì người thầy xưa nay thật chẳng
tham thiền, lại chưa hiểu Phật pháp, nhờ có phước si được
làm trụ trì; hoặc thầy có theo qui tắc ngồi thiền mà chưa
dạy bảo người học một việc gì, chỉ thỉnh Di Đà, Quan
Âm, Văn Thù, Di Lặc, chư Phật, chư Bồ tát để làm bản
tôn, ngồi im niệm danh hiệu hoặc niệm chú nói nhờ tha lực,
kiếp này ngộ đạo, kiếp sau sanh Tịnh độ, tự lầm và
dạy người, chùm đầu mà ngồi, giống như con sứa nhờ mắt
tôm để tìm món ăn. Nếu làm như thế mà được ngộ thì
người đá, người gỗ, ông Địa cũng phải đại ngộ.
Còn
nói điều phục tọa thiền, ví như ngựa rừng gắn yên; rắn
rừng vào ống tre, chỉ biết giữ theo lời dạy của thầy,
dùng công phu tọa thiền để hàng phục phiền não vọng tưởng.
Nếu làm như thế mà khai ngộ thì ngựa rừng, rắn rừng cũng
phải khai ngộ.
Những
tệ đoan của loại thiền này hiện nay vẫn còn giữ trong
tùng lâm, như niệm thoại đầu, đả ngạ thất (ngồi luôn
bày ngày đêm nhịn đói), bất đảo đơn… Thậm chí có người
đặt ra thần thoại, nói là mười ngày, tám ngày chẳng ăn,
thì được nhìn thấu qua vách tường mà thấy sự vật bên
ngoài thấy thần thấy ma… Sự bày đặt ma quái ngày càng
tăng thêm để làm hại cho người học.
37/
Lầm Nhận “Một Đường Hướng Thượng, Ngàn Thánh Chẳng
Truyền” Là Pháp Môn Để Dụng Công:
Người
xưa nói: “Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng
truyền”, ý là phàm nói được, truyền được thì chẳng
phải chơn như, chơn như Phật tánh phải tự chứng lấy, chẳng
thể nói cho người. Nay người ta hiểu lầm rằng pháp tham
thiền chẳng thể truyền thọ, chỉ có thể tự mình đi tìm
tòi, ấy là sai lầm lớn. Phật tánh dù chẳng thể ngôn truyền,
nhưng pháp dụng công tham thiền thì do ngàn Thánh sở truyền,
Phật Phật tự tay thân thọ nhau. Thế Tôn thuyết pháp 49 năm,
hoặc quyền hoặc thật, hoặc đốn hoặc tiệm, đời đời
kế thừa nhau, Thánh Thánh nối tiếp nhau, Tổ sư hét, gậy,
chửi mắng, dựng phất trần, giơ cây chỉa đều là thân
thiết bảo cho người, nhưng phải xem người ấy có thể thừa
đương hay không, chớ đâu phải chẳng truyền!
38/
Lầm Nhận “Dẫu Cho Biển Xanh Biến Thành Ruộng Dâu Cũng
Chẳng Vì Ông Nói Trắng Ra” Là Pháp Môn Dụng Công:
Người
xưa nói: “Dẫu cho biển xanh biến thành ruộng dâu cũng chẳng
vì ông nói trắng ra”, ý nói Phật tánh chơn như chỉ có
thể tự chứng ngộ, chẳng thể dùng ngôn ngữ nói cho người
biết.
Xưa
khi khi Hương Nghiêm chưa ngộ, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra,
Qui Sơn nói: “Ta nói là của ta, chẳng dính dáng với ngươi”,
sau ở Nam Dương đang cuốc đất quăng miếng ngói trúng nhầm
cây tre phát ra tiếng, mới phát minh Tâm địa. Còn Phái Nguyên
Phù thượng tọa giảng kinh Niết Bàn, tỏ bày diệu lý của
Pháp thân, có thiền khách nghe xong nói: “Ông dù giảng hay,
nhưng thật thì chẳng biết”. Bèn ngưng giảng, tham cứu,
nửa đêm nghe tiếng trống mới ngộ Pháp thân. Người đời
nay hiểu lầm ý chỉ rằng “Dẫu cho biển xanh biến thành
ruộng dâu, cũng chẳng vì ông nói trắng ra” là sự bí mật
truyền thọ của tông môn, chẳng thể dạy người, ấy là
sai lầm lớn. Há chẳng nghe Lục Tổ nói: “Ngươi nếu phản
chiếu, mật ở bên ngươi” sao!
|