.
CHƯƠNG
II
YẾU
CHỈ THIỀN TÔNG
1-
Ý NGHĨA “GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”.
Bích
Nham Tập có bài bình xướng rằng: “Đạt Ma từ xa quán đất
này có căn khí Đại thừa, bèn vượt biển đến Trung Quốc,
chuyên truyền Tâm ấn khai thị cho kẻ mê, chẳng lập văn
tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”.
Nói
“Chẳng lập văn tự”, vì văn tự phải nương bộ não suy
nghĩ, suy nghĩ thì nương nhất nhiệm vô minh; nhất niệm vô
minh hư huyễn chẳng thật, nên suy nghĩ văn tự cũng hư huyễn
chẳng thật. Do hư huyễn chẳng thật gọi là tương đối,
tương đối thì có sanh diệt, chẳng thể hiển bày tuyệt
đối chẳng sanh diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể
hiển thị Phật tánh, nên nói chẳng lập văn tự. Phật Thích
Ca dùng lời nói văn tự để hoằng giáo pháp là do sự bất
đắc dĩ, nên thí dụ ngón tay chỉ mặt trăng, vừa thuyết
liền phá. Kinh Niết Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển,
cuối đến sông Bạt Đề, khoảng giữa 50 năm, chưa từng
thuyết một chữ” là vậy.
Kinh
Kim Cang nói: “Nếu nói Như lai có thuyết pháp tức là báng
Phật, người ấy chẳng hiểu nghĩa sở thuyết của ta”.
Ý cho rằng phàm thuộc về lời nói văn tự đều chẳng có
nghĩa thật, tương đối chẳng thể diễn tả tuyệt đối.
Phật Thích Ca vì từ bi độ chúng sanh, dù tạm mượn lời
nói văn tự để thuyết pháp, chỉ gọi là phương tiện, nên
khi đang thuyết pháp, thường cảnh cáo đại chúng chớ chấp
lời nói là thật, để khỏi tự kẹt chẳng thông, đọa vào
trong hầm sâu tương đối mà chẳng thể tự cứu.
Phật
đối với lời nói và nghĩa thật phân ra rõ ràng, chẳng cho
lẫn lộn, thật rất khổ tâm.
Kinh
Lăng Già nói: “Đại Huệ! Những kẻ si mê nói rằng: Nghĩa
như ngôn thuyết, nghĩa với thuyết chẳng khác. Tại sao? Vì
nghĩa tự chẳng thân (không bản thể), ngoài ngôn thuyết chẳng
còn nghĩa nào, nên nói nghĩa đúng như ngôn thuyết. Đại Huệ!
Họ nói vậy là trí huệ bị cháy khét, chẳng biết Tự tánh
ngôn thuyết, chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt (pháp tương
đối), nghĩa thì chẳng sanh diệt (pháp tuyệt đối). Đại
Huệ! Tất cả ngôn thuyết đều đọa nơi văn tự, nghĩa thì
chẳng đọa, lìa tánh và phi tánh, cũng chẳng thân chẳng thọ.
Đại Huệ! Như lai chẳng thuyết những pháp đọa văn tự,
vì văn tự có với không đều bất khả đắc, nên nói chẳng
đọa văn tự. Đại Huệ! Nếu nói Như lai thuyết những pháp
đọa văn tự, ấy là hư vọng, vì pháp lìa văn tự, cho nên
chư Phật và chư Bồ tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp
một chữ. Tại sao? Vì pháp lìa văn tự (bản thể tuyệt đối
chẳng dính dáng với văn tự). Dù ngôn thuyết là vọng tưởng
của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn thuyết,
nếu chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ bị hoại,
nếu giáo pháp hoại thì chẳng còn chư Phật, Bồ tát, Duyên
giác, Thanh văn, vậy ai thuyết cho ai? Đại Huệ! Đại Bồ
tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng phương tiện
tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của
chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi
mỗi khác nhau của chúng sanh mà thuyết pháp, khiến lìa tâm
(thức thứ tám), ý (thức thứ bảy), và ý thức (thức thứ
sáu); vì tâm, ý, ý thức chẳng thể đạt đến chỗ tự giác
Thánh trí vậy”.
Lời
nói văn tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng
có giá trị để nói, nhưng đối với sự thuyết pháp độ
sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm công cụ chủ
yếu, đến khi hội Linh Sơn Phật niêm hoa thị chúng, Ca Diếp
tỏ ngộ, mới tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền,
chẳng lập văn tự” để truyền cho Ca Diếp, pháp môn này
là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật tánh, khiến
chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản
thể của Chơn như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy
dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn biết họ căn cơ đã thuần
thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này, khiến
đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa.
Suy
nghĩ, lời nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô
minh. Khi một niệm chưa động, tịch nhiên trống rỗng, chẳng
có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng chẳng lời nói văn
tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích
thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ
có lời nói, do lời nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời
nói chẳng có tiếng, lời nói là suy nghĩ có tiếng, văn tự
là nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba đều
gom trong chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên
gọi” có hai thứ, một là tên gọi ngôn thuyết, hai là tên
gọi suy tư. Nhà triết học Rousseau cũng nói “Tư tưởng là
nói bên trong”, Lâm Tế thiền sư nói: “Tên gọi chẳng tự
là tên gọi, chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh thiêng
của kiến văn giác tri chiếu soi ấy, gắn cho tất cả tên
gọi”. Nhưng cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất
niệm vô minh có sanh có diệt, biến đổi vô thường, tên
gọi văn tự cũng theo đó biến đổi vô thường. Vô thường
thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt đối, tương đối
chẳng thể hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật
tánh chỉ có thể tự tu tự chứng mới có thể nhận biết
được, chẳng thể dùng văn tự diễn tả, cũng chẳng thể
dùng bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa
(Phật tánh tuyệt đối) là sở đắc của Thánh trí tự đắc,
chẳng phải cảnh giới cảm giác của vọng tưởng ngôn thuyết,
cho nên vọng tưởng chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa.
Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên tương sanh với
nhau, vì do nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể hiển
bày Đệ nhất nghĩa”.
Kinh
Giải Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở
chứng bên trong của bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo
lường) là sở chứng của chúng sanh”. Lại nói: “Sở hành
của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành theo cảnh giới
có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là
hành theo cảnh giới ngôn thuyết; thắng nghĩa vốn tuyệt biểu
thị, thắng nghĩa tuyệt cả tranh luận, suy tư là hành theo
cảnh giới tranh luận”.
Theo
các kinh điển kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn
như Phật tánh chẳng thể tiếp xúc với nhau. Người ta thường
nói: “Chỉ có thể ý hội, chẳng thể ngôn truyền”. Kỳ
thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng
thể được, huống là ngôn truyền ư! Chẳng những Phật tánh
như thế, cho đến một kỹ thuật của thế gian chỗ huyền
diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền vậy.
Như
Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách nhà trên, người thợ
mộc đẽo bánh xe ở nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi
Hoàn Công rằng: xin hỏi sách Ngài đọc đó là sách gì?
Hoàn
Công trả lời: Lời nói của bậc Thánh.
-Bậc
Thánh đâu?
-Chết
rồi.
Người
đẽo bánh xe liền nói: Thế thì sách của Ngài đọc đó chỉ
là cặn bả của bậc Thánh mà thôi!
Hoàn
Công nói: Quả nhân đọc sách, người thợ đẽo bánh xe sao
được bàn luận? Nến nói có lý thì ta tha tội, nếu nói
không được thì chém đầu.
Người
đẽo bánh xe thưa: Hạ thần đem việc của hạ thần ra mà
xem, nếu hạ thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì xe
chạy được nhưng không an toàn vì dễ sút ra, nếu đẽo hơi
chặt thì bánh xe khít mà quay không được, do sự tự ngộ
của hạ thần, tâm khiến tay, tay cầm búa đẽo vào bánh xe,
chẳng lỏng chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói, nhưng
có sự tự động ở trong đó. Dù con của hạ thần cũng là
một thợ mộc danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể đem sự
ngộ ấy để truyền dạy cho con. Nay hạ thần còn sống, có
bánh xe, có búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng được, huống
là bậc Thánh đã chết, chỉ để lại lời nói không còn
gì cả!
Do
đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián
tiếp, sức diễn tả rất hạn chế, huống là muốn truyền
đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật nói: “Bất
khả thuyết! Bất khả thuyết!” Còn Văn Thù bồ tát tán
thán Duy Ma Cật rằng: “Cho đến chẳng có ngôn có thuyết,
ấy là chơn nhập pháp môn bất nhị”. Lão Tử nói: “Cho
nên bậc Thánh ở nơi việc vô vi hành giáo giáo pháp vô ngôn”.
Khổng Tử nói: “Ta muốn vô ngôn”. Tử Lư nói: “Văn chương
qua Khổng Phu Tử có thể nghe mà tánh với thiên đạo thì
chẳng thể nghe”. Liệt Tử nói: “Vì ngộ bản tánh nên
chẳng thể bảo cho biết”. Các nhà Nho và Đạo giáo đều
cùng một ý kiến này.
Thế
Tôn vì cứu sự hạn chế hẹp hòi của lời nói văn tự,
nên ở ngoài ngôn giáo biệt truyền phương pháp trực tiếp,
tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng những niêm hoa
mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn
đều là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập
bản thể tuyệt đối.
Kinh
Lăng Già nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới
đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ dùng để giả lập
mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để thuyết pháp,
hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt,
hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc lay động,
hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại Huệ! Những tác dụng kể trên
đều khiến chư Bồ tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn và Tam muội
thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả
tánh. Đại Huệ! Giống như những ruồi muỗi, con kiến, con
trùng trong thế giới này, đều chẳng có ngôn thuyết mà mỗi
mỗi làm xong việc hằng ngày”. Hét, gậy, chửi, mắng, dựng
phất trần, giơ ngón tay của Tổ sư Trung Quốc đều từ đây
mà ra, chẳng phải khi không bày đặt, hoặc có người hỏi
nói Thiền tông là sáng lập từ Trung Quốc, ấy là do người
chưa hiểu thấu vậy.
Mặc
dù sự diễn tả của ngôn thuyết văn tự có nhiều hạn chế,
nhưng chẳng thể phế bỏ. Kinh Viên Giác nói: “Kinh giáo liễu
nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng
thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng, tất cả ngôn thuyết
của Như lai khai thị cho Bồ tát đều cũng như thế”. Nên
biết giáo pháp văn tự của Như lai đều từ bản tánh chảy
ra, muốn khiến chúng sanh theo đó tu hành để đạt đến bản
thể tuyệt đối, lìa nhị biên Có và Không, chẳng phải lời
nói văn tự của thế gian có thể so bằng.
Kinh
Giải Thâm Mật nói: “Dù pháp tánh lìa ngôn, vì muốn khiến
chúng sanh tự hiện Đẳng giác, nên giả lập danh tướng”.
Còn nói: “Dù Tự tánh chẳng tánh, pháp sở chứng lìa những
văn tự, nhưng chẳng thể bỏ ngôn thuyết văn tự mà được
diễn thuyết”. Kinh nói: “Biết pháp chẳng do ngôn, người
khéo diễn tả ở nơi vô ngôn, mà hiển bày ngôn thuyết, như
tiếng vang khắp nơi”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chư
Phật ra diệu âm thanh, vì chúng sanh làm Phật sự; tất cả
chư Phật tịch lặng vô ngôn cũng vì chúng sanh làm Phật sự”.
Nên biết một nói, một nín, một động, một tịnh của Phật
đều là dẫn dắt chúng sanh đạt đến chỗ giải thoát, như
thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, chỉ cần hết bệnh tức
là toa thuốc hay, đâu cần phân biệt lộc nhung hay cứt bò!
Xưa
nay các Tổ sư Thiền tông như ngài Đạo Tín, Huệ Năng, Đạo
Nhất, Bá Trượng, Đại Châu, Lâm Tế, Tuyết Phong, Tuyết
Đậu… dù gắn cái bảng hiệu “chẳng lập văn tự”, nhưng
đều có pháp ngữ và tác phẩm lưu hành trên đời, chẳng
phải hoàn toàn phế bỏ văn tự. Nên biết nói “chẳng lập
văn tự” là muốn chỉ rõ tìm Phật tánh trong văn tự bất
khả đắc, người tu hành chớ nên đọa vào vọng tưởng
văn tự mà bị văn tự trói buộc, nếu cứ chấp thật sự
chẳng lập văn tự thì nghịch với bản ý của Phật với
Tổ vậy.
Kinh
Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ chấp Không lại báng kinh rằng,
trực ngôn chẳng dùng văn tự; đã nói chẳng dùng văn tự
thì con người cũng chẳng nên ngôn ngữ, vì ngôn ngữ tức
là tướng của văn tự”. Lại nói: “Trực đạo chẳng lập
văn tự, đâu dè hai chữ chẳng lập cũng là văn tự, thấy
người có lời nói, liền báng họ là dính mắc văn tự. Các
ngươi nên biết, tự mê còn đỡ, lại báng kinh Phật, chớ
nên báng kinh, tội chướng vô số kể”.
Tổ
Đình Sự Uyển có nói: “Chư Tổ truyền pháp, ban sơ tu hành
gồm tam tạng giáo thừa, sau tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm
ấn, phá chấp giáo để hiển Tông (Thiền), gọi là giáo ngoại
biệt truyền, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật. Nhưng đối với sự chẳng lập văn
tự, người hiểu lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả
văn tự, lấy im lặng tĩnh tọa làm Thiền, ấy là con dê câm
của Thiền môn. Vả lại muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là
văn tự chẳng lập thôi! Họ chẳng biết đạo tức phải
thông, sao lại cố chấp nơi một gốc!”
Nên
người thông thạo ngay nơi văn tự mà văn tự bất khả đắc,
đối với văn tự như thế, đối với các pháp khác cũng
vậy, hễ kiến tánh thành Phật là xong, đâu đợi bỏ văn
tự mới xong!
Cho
nên văn tự dù thuộc về tương đối, nếu được nương
ngón tay mà thấy mặt trăng thì văn tự chưa từng chẳng có
công dụng, nếu được minh tâm kiến tánh, chứng nhập Nhất
hạnh, nhất tướng Tam muội thì ngay nơi văn tự tức là Thật
tướng, tương đối biến thành tuyệt đối; nếu chấp ngón
tay là mặt trăng thì văn tự chưa từng là chẳng hại.
Tam
tạng mười hai bộ kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng
do Phật phủ định; giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định
là vì khỏi làm hại chúng sanh. Nếu giả lập mà chẳng thể
phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng
thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập
cũng hay phủ định. Cho nên Phật pháp mới được viên dung
vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ khuyết điểm.
Phật
từng thuyết “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã” rồi ngay
đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Tứ Đế, Thập
Nhị Nhân Duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền, nói
giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết pháp như thế
mới chẳng kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối
mà chẳng có gì cả. Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển
pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết những kinh điển
nhưng pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi!
Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ,
chẳng còn dấu tích để tìm thì đâu còn gì để cho họ
chỉ trích ư! Nên người vấn nạn muốn báng Phật, cũng như
dùng ngón tay đánh hư không, như ngước mặt phun nước miếng
lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho người cũng chẳng được.
Được hiểu như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền.
2-
SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN.
Tông
môn, giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc
căn cứ nơi kinh Lăng Già. Phật bảo: “Đại Huệ! Tất cả
Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, có hai thứ tướng thông: gọi
là Tông thông và Thuyết thông. Nói Tông thông là do tự
mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn
tự vọng tưởng, rồi ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa
nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng
phục tất cả bọn ma đạo, do tự giác phát huy ánh sáng,
ấy là tướng tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thông?
Nói thuyết đủ thứ giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng
đồng, dị và có, không, dùng phương tiện tinh xảo để tùy
thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến được độ thoát,
ấy gọi là Tướng thuyết thông. Đại Huệ! Ngươi và các
Bồ tát nên tu học.
Phật
nói “Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham
tự chứng; nói “Thuyết thông” là Pháp sư giảng giáo lý,
thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự tánh, chẳng đọa nhị
biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; một do tâm hành,
một do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại
khái chẳng ra ngoài hai lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng
đồng, nhưng mục đích cuối cùng chỉ là một, nếu xét kỹ
lại thì tông chẳng lìa giáo, giáo chẳng lìa tông, xưa nay
Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng kinh điển,
nhưng Thế Tôn sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta
có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng
vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại
biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”.
Tám câu này tức là ngôn ngữ, tức là giáo lý, cho đến tổ
Đạt Ma lấy kinh Lăng Già truyền cho ngài Huệ Khả, ngũ tổ
Hoằng Nhẫn lấy kinh Kim Cang truyền thọ ngài Huệ Năng, Tứ
Tổ có Pháp ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng
tỏ tông chẳng lìa Giáo vậy.
Lại
như trong giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm,
Kim Cang, Lăng Già đều trực thị tông chỉ chẳng lìa Pháp
thân, ấy đều chứng tỏ Giáo chẳng lìa Tông vậy. Nên Chứng
Đạo Ca nói: “Tông cũng thông, Thuyết cũng thông. Định,
Huệ sáng tròn chẳng kẹt Không”, chúng sanh đời mạt pháp
chẳng rõ ý chỉ này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người
thông suốt, lại mỗi mỗi tự lập cửa ải, bài xích lẫn
nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà đè Giáo, kẻ học Giáo
thì chấp Giáo mà khinh Tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa
nơi rỗng không, Giáo lìa Tông thì thành ra tạp loạn; Tông
với Giáo như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe
nào.
Hành
giả Tông môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện
tri thức, hiểu rõ phương pháp dụng công đứng đắn, vẫn
cần biết rõ cảnh giới chẳng đồng của bốn thừa và sự
khác nhau của phương pháp dụng công, mới chẳng lầm nhận
cho Tiểu thừa là Đại thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể
đạt đến minh tâm kiến tánh.
Muốn
rõ bốn thừa cũng nên xem kinh điển giáo lý; người học
giáo lý đã rõ bốn thừa rồi, cần phải chơn tham thật chứng
mới được minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng minh tâm kiến tánh,
dù kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài như suối
chảy, ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể
của Phật tánh đều chẳng dính dáng, thậm chí hiểu lầm
ý Phật, tự ý phát huy để di hại cho kẻ hậu học.
3-
ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA.
Chữ
Phật còn thuộc giả danh, huống là bốn thừa ư! Nhưng đức
Phật đại bi cứu thế, phương tiện độ sanh, vì tùy căn
cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả thiết đủ thứ ngôn giáo
pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi lập
giáo, như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho thuốc, nên có những
thí dụ như xe dê, xe nai, xe trâu (tam thừa) và hóa thành (nửa
đường), Bửu sở (quả Phật)… Khổ tâm ấy thật là chiếu
sáng muôn đời.
Tất
cả pháp có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp
tương đối phải tùy theo không gian và thời gian mà biến
đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật thuyết pháp vừa
thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết
diệu lý của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu,
chúng đều bỏ đi, rồi trở lại thuyết pháp môn Tiểu thừa,
người nghe mới tin được. Đến khi đồ chúng tu Tiểu thừa
đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình,
Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, chưa lìa
hẳn sanh tử, nên tu Trung thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu
Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều Không. Phật lại quở
rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa
sạch, cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại thừa”. Từ
đó chúng mới chuyên tu pháp Đại thừa, đến khi căn cơ thuần
thục, Phật mới trực thị pháp Tối thượng thừa, kẻ tu
hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do
tạo tác, mới biết phi tâm, phi Phật, phi vật, cuối cùng
chẳng có pháp nào để đắc, nói “Pháp môn” chỉ là nói
suông, nói “bốn thừa” đều là hý luận, khi ấy mới tin
Phật nói “Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ”
là chẳng phải cố ý bày đặt sự huyền bí.
Nay
lược thuật cảnh giới bốn thừa như sau:
TIỂU
THỪA: Cũng gọi là Thanh văn thừa, do nghe thanh giáo của
Phật mà ngộ lý Tứ Đế, đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc,
chứng nhập Niết bàn Tiểu thừa, ấy là lối tu hạ căn trong
đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai chữ Thanh
văn là kẻ hạ căn theo giáo lập nên, thanh tức là Giáo vậy”.
Pháp
môn Tứ Đế của thừa Thanh văn sở tu tức là khổ, tập,
diệt, đạo. Khổ là cái quả của thọ báo, tập là cái nhân
chiêu quả, diệt là đắc quả tịch diệt, đạo là lối tu
để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu
theo Tứ Đế tức là biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo;
Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của họ là đoạn dứt
công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ
còn một chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu
thừa đạt đến, quả cùng tột gọi là A la hán.
Động
cơ của người tu Tiểu thừa là nhàm chán phiền não sanh tử
mà cầu thanh tịnh Tịch diệt, cho rằng trong linh tánh vốn
chẳng có phiền não, tất cả khổ đều do lục căn chiêu
tập mới có, nên muốn được sự vui thanh tịnh tịch diệt
chỉ có tu đạo làm cho công dụng của lục căn dừng lại,
chẳng sanh tác dụng chiêu tập, mắt chẳng thấy, tai chẳng
nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng nếm, thân chẳng xúc, ý
chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu
cửa đã đóng kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh
tịnh, tịch tịnh an lạc, ấy là đạo quả sở chứng của
Tiểu thừa. Nhưng lục căn dù tạm dứt, mà một niệm thanh
tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.
TRUNG
THỪA: cũng gọi là Duyên giác thừa, do quán nhân duyên
mà ngộ đạo. Xưa nay xưng Bích chi phật, dịch nghĩa là Độc
giác. Pháp môn của Trung thừa là Thập Nhị Nhân Duyên, tức
vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh
sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ,
thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh,
sanh duyên lão tử. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm
quá khứ, hiện tại, vị lai, tâm thế nhân quả tuần hoàn
chẳng dừng.
Ở
đây Vô minh là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất
niệm vọng động, chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác
khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền não, tạo đủ thứ
thiện ác nghiệp, gọi là Hành, hai chi này là nhân đời trước.
Thức là nghiệp thức như thân trung ấm bị lôi kéo mà đến
đầu thai; Danh sắc là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành,
tứ ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức chỉ có tên gọi, chưa có
thật chất; Lục nhập là nói ở trong thai lục căn đã hoàn
thành, là chỗ sở nhập của lục trần; Xúc là sau khi sanh
ra, lục căn tiếp xúc lục trần; Thọ là lãnh thọ các cảnh
giới thuận nghịch, năm chi này là quả đang thọ ở đời
này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái; Thủ là chấp
thủ việc mình ham muốn; Hữu là có quyền sở hữu, cho mình
được tùy ý chi phối, ba chi này là nhân sở đắc của đời
này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo ứng nghiệp
quả. Sanh là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử
để thọ sanh nơi kiếp sau. Lão tử là kiếp sau đã có sanh,
ắt phải có lão tử, hai chi này là quả báo phải thọ ở
đời sau. Ấy là đại khái của Thập Nhị Nhân Duyên.
Kẻ
tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị
Thập Nhị Nhân Duyên chi phối, mà Thập Nhị Nhân Duyên thì
nương nhất niệm vô sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể
phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu cánh, nếu được
đoạn dứt nhất niệm này thì vượt ra ngoài tam thế, liễu
thoát sanh tử.
Nên
cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô
minh, đạt đến cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có
gì cả, tự cho đã chứng Niết bàn, chẳng biết đã lọt
vào vô thỉ vô minh. Cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả,
cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác
gì gỗ đá! Huống chi nhất niệm vô minh dù tạm dừng, nếu
bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên sở chứng của
Trung thừa vẫn chưa cứu cánh.
ĐẠI
THỪA: Cũng gọi là Bồ tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba
la mật, cũng gọi là Lục độ. Sáu Ba la mật là: Bố thí,
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na, Bát nhã. Người
tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ đề dịch là
Giác, Tát đỏa dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh
hữu tình, gọi tắt là Bồ tát, tức là chúng sanh phát đại
tâm Bồ đề, lấy tâm Bồ đề làm thể để tự độ; lấy
tâm Đại bi làm dụng để độ tha, tự tha kiêm lợi, nên
xưng Đại thừa. Phẩm Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu
có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn nghe pháp tín thọ, tinh tấn
tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, vô
sư trí, Vô sở úy, dùng sức tri kiến của Như lai thương
xót vô lượng chúng sanh, độ thoát tất cả trời, người
đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại thừa.
Lục
độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền
na làm chủ yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết
nhất niệm vô minh chẳng thể phá, nên lợi dụng nhất niệm
vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến tánh, ấy
là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để
bắt vua cướp (vô thỉ vô minh) vậy.
TỐI
THƯỢNG THỪA: Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm
kiến tánh, hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý
tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết
nhau được. Nên Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mỉm cười; Ca Diếp
giơ tay, A Nan hiệp chưởng, dùng tâm ấn tâm, khế hợp ăn
khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp
tối cao cùng tột, chẳng còn gì hơn nữa, ấy gọi là Tối
thượng thừa thiền.
Tiểu
thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh,
Đại thừa đoạn vô thỉ vô minh, Tối thượng thừa trực
chỉ Chơn như Phật tánh, đây là đại ý của bốn thừa.
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người
tự có sai biệt mà hình thành; thấy, nghe, đọc, tụng là
Tiểu thừa; hiểu nghĩa ngộ pháp là Trung thừa; y pháp tu hành
là Đại thừa; vạn pháp đều thông, vạn pháp sẵn sàng,
tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc,
gọi là Tối thượng thừa”. Thế thì, đại ý của bốn
thừa đã rõ ràng.
Triệu
Châu hòa thượng nói: “Ta Chẳng thích nghe một chữ Phật”,
còn nói: “Hễ lão Tăng niệm Phật một tiếng thì phải súc
miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ lời này thì chẳng bị bốn
thừa trói buộc.
Xem
Tiếp: Trang
02-2