.
CHƯƠNG
I
CỘI
NGUỒN TRUYỀN THỪA
1-
NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN.
Loài
người từ nguyên thỉ ngu dại ngoan cố, Phật tánh Bát nhã
bị vô minh che khuất nên thân tâm hoạt động đều bị ngũ
uẩn, tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng
Phật tánh vốn sẵn viên mãn chẳng có thiếu sót, như ngọc
quí ẩn trong phiến đá chỉ đợi người khai thác ra mà thôi.
Sau này trí thức mở mang mới cảm thấy hiện tượng vũ trụ
kỳ lạ, lại tôn sùng cho là thần linh, kế đó phát tâm truy
cứu cái bí mật của vũ trụ. Ban đầu thì muốn nhờ bộ
não lý giải để xác định quy tắc, sau này trở về tìm
nội tâm muốn truy cứu chỗ nguồn gốc biến hóa. Những người
trí huệ cao siêu thì muốn nhờ sức Bát nhã để cầu chứng
nhập chỗ cùng tột của bản thể, vượt ra ngoài sanh tử
luân hồi, do đó pháp Thiền liền đáp ứng sự nhu cầu mà
ra đời.
Cứu
xét lịch sử tiến hóa của loài người, các dân tộc phương
Đông và phương Tây, tổ tiên của họ đều có sự nhu cầu
như thế, đồng thời mỗi mỗi đều có sự phát hiện quí
báu, chỉ vì hoàn cảnh trí huệ khác biệt, đường lối thực
hành chẳng đồng, nên được kết quả sai biệt cách xa như
trời với đất. Các nhà tôn giáo Tây phương thì chú trọng
linh cảm, nhà Triết học thì tôn sùng khái niệm và trực
giác, các phái Đạo gia của Trung Quốc thì tọa vong, nhà Nho
thì duy tinh, duy nhất, thảy đều có mùi vị Thiền.
Thiền
pháp của Bà La Môn Ấn Độ sáng lập trước hơn các nước
khác, nhưng tất cả chưa lìa được tác dụng kiến, văn,
giác, tri, nên chẳng có cách nào để chứng nhập chỗ cùng
tột của bản thể, từ xưa nay vẫn phải chịu sự luân hồi
trong tam giới. Chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni phát minh được
Thiền pháp Bát nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh,
triệt để chứng ngộ vào Vô dư Niết bàn, nên gọi là kiến
tánh thành Phật. Phật Thích Ca đặt tên pháp Thiền này gọi
là Pháp Bản Trụ, ý là tự nhiên bản trụ, chẳng do tạo
tác mà có, và phủ nhận chẳng do tự mình phát minh.
Kinh
Lăng Già nói: “Ví như người đang đi ngoài đồng, thấy
có đường đi bằng phẳng liền theo đó vào thành, thọ dụng
sự an lạc như ý. Xưa kia tất cả Phật đều đi đường
này thì nay ta cũng đi theo mà thôi”. Do đó mà xét thì biết
pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người,
trước khi chưa có loài người, Phật tánh đã sẵn sàng và
pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu Cổ Phật trước
đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến
chỗ chơn như rốt ráo, vô thượng chư Phật; sau đời Phật
Thích Ca cũng sẽ nương theo đường này để đạt đến giác
ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có pháp nào khác,
nên đường lối này dù là sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích
Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phải quanh quẩn trong ngã rẽ
mà quên việc trở về nhà.
2-
PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA.
Trước
đời Phật Thích Ca, các Tông phái Bà La Môn Ấn Độ đều
có pháp Thiền tu hành của họ, pháp danh tiếng nhất như:
Mười Hai Tịnh Pháp Thiền, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền,
đều là ngoại đạo dùng nó để tu được sanh cõi Trời.
Khi Phật Thích Ca mới xuất gia, từng tham học các Thiện tri
thức của Bà La Môn, đối với các pháp Thiền của họ đều
chưa hài lòng, cho nên vào Tuyết Sơn tự tu. Ban sơ vẫn dùng
Phi Tưởng Phi Tưởng Thiền đoạn niệm dứt dục trải qua
sáu năm chẳng kết quả gì, biết pháp Thiền của Bà La Môn
là sai, nên tắm gội ăn uống lại rồi đến ngồi dưới
cây Bồ đề, dùng pháp Thiền Bát nhã Tam muội phản quán
chiếu soi, trải qua 49 ngày liền chứng quả Phật, than rằng:
“Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ đức
tướng trí huệ của Như lai, nhưng chỉ vì vọng tưởng chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”. Thích Ca sau khi thành
Phật, muốn dùng sở chứng của Ngài khai thị cho chúng sanh
khiến ngộ, nhập Tri Kiến Phật, vì căn cơ chúng sanh muôn
ngàn sai biệt, nên pháp của Như lai thuyết cũng muôn ngàn
sai khác, nói đại khái có thể chia làm bốn thừa: Tiểu thừa,
Trung thừa, Đại thừa, và Tối thượng thừa. Tiểu thừa
tu thiền Tứ Đế, gọi là Thanh văn thừa; Trung thừa tu thiền
Thập Nhị Nhân Duyên, gọi là Duyên giác thừa; Đại thừa
tu thiền Lục Độ, gọi là Bồ tát thừa; Tối thượng thừa
là chỉ thị trực tiếp Chơn như Phật tánh, chỉ có người
chứng nói với người chứng mới biết được, gọi là Nhất
Phật thừa, tức là pháp thiền “Niêm hoa thị chúng”, cũng
gọi là Giáo ngoại biệt truyền vậy.
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết
hạnh Thanh văn cho họ; nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc giác
thì thuyết đạo Duyên giác cho họ; nếu có người từ bi,
ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ tát cho họ; nếu
có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị pháp Vô thượng
của Như lai”.
Phật
Thích Ca dù giả thiết đủ thứ phương tiện để dẫn dắt
chúng sanh, nhưng tông chỉ duy nhất chẳng ngoài một việc
kiến tánh thành Phật mà thôi, nói vì một nhân duyên đại
sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến chúng
sanh đạt đến kiến tánh thành Phật, mới là sự phó chúc
huệ mạng của chư Phật, chư Tổ.
Kinh
Pháp Hoa nói: “Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất
Thừa, chẳng hai cũng chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện,
chỉ dùng giả danh tự, dẫn dắt cho chúng sanh, nên nói trí
huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài ra đều chẳng chơn”.
Khi
Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử đều lấy tu Thiền
làm cơ bản, sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, do pháp Thiền
cao thấp thành có bốn thừa, nhưng đồng thời được các
tông chú trọng. Thiền tông độc lập thành một tông phái
là bắt đầu từ Trung Quốc.
3-
THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.
Các
pháp môn truyền dạy từ Phật Thích Ca đã có bốn thừa sai
biệt, thì pháp Thiền của họ tu bèn có trực tiếp và gián
tiếp khác nhau, như: Thế gian Thiền, Xuất thế gian Thiền,
Thượng thượng Thiền, cho đến Ngũ chủng Thiền, Lục chủng
đại Thiền… danh hiệu rất nhiều, có cách tu được kiến
tánh, cũng có cách tu chỉ được sanh cõi Trời mà chẳng thể
kiến tánh, nhưng đều chẳng xuất phát từ Thiền tông Trung
Quốc.
Dù
nói Thiền tông Trung Quốc, nhưng bắt đầu từ Sơ tổ Ma Ha
Ca Diếp, truyền đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, truyền
vào Trung Quốc làm Sơ tổ, ấy là sự y cứ để kiến lập
Thiền tông. Sự tích của chư Tổ từ đời từ đời truyền
xuống đều có ghi rõ trong Truyền Đăng Lục, độc giả muốn
biết rõ thì hãy tự xem lấy, ở đây chẳng thể kể xiết.
4-
PHÁP THIỀN TẠI TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN.
Trước
khi tổ Đạt Ma chưa đến, các kinh Thiền đã truyền vào Trung
Quốc rất nhiều. Hằng Đế đời Hậu Hán có Sa môn An Thế
Cao thông suốt kinh luận, lại giỏi về pháp Thiền, đến
thành phố Lạc Dương, dịch kinh hơn trăm bộ, trong đó có
các kinh nói về pháp Thiền gồm: Đại ban An Thủ Ý Kinh hai
quyển, Thiền Hạnh Pháp Tưởng Kinh một quyển, Đại Thập
Nhi Môn Kinh một quyển, Tiểu Thập Nhị Môn Kinh một quyển,
Thiền Hạnh Ba Mươi Bảy Phẩm Kinh một quyển, Thiền Định
Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh một quyển, Thiền Pháp Kinh
một quyển.
Cuối
đời nhà Hán, có Cư sĩ Chỉ Khiêm người nước Nhục Chi
đến Lạc Dương, dịch Tu Hành Phương Tiện Kinh hai quyển,
Thiền Bí Yếu Kinh bốn quyển. Đời Tam Quốc có Khương Tăng
Hội đến Dương Đô, dịch Tọa Thiền Kinh một quyển. Đời
Tây Tấn có Sa môn Trúc Pháp Hộ dịch Hữu Pháp Quán Kinh một
quyển; lại có Phật Đà Bạt Đà đến Trường An chuyên hoằng
pháp Thiền, sau ứng lời mời của Huệ Viễn pháp sư ở Lư
Sơn, dịch Đạt Ma Đa La Thiền Kinh hai quyển, ngài Cưu Ma Thập
có dịch Thiền Bí Yếu Pháp Kinh ba quyển, Tọa Thiền Tam Muội
Kinh hai quyển, Thiền Pháp Yếu Giải hai quyển, Tư Duy Lược
Yếu Pháp một quyển… Ngoài ra còn nhiều lắm chẳng thể
kể xiết.
Các
Kinh kể trên phần nhiều thuộc pháp Thiền Tiểu thừa, Trung
thừa, các sư như An Thế Cao và Giác Hiền chuyên hoằng về
pháp Thiền Tiểu thừa, Cưu Ma Thập là người Đại thừa
mà dịch Thiền Kinh chẳng giống Đại thừa, cho đến Đạt
Ma Đa La Thiền Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh xưa kia được
xem là Đại thừa Thiền, nhưng ở trong cũng xen vào Thiền
Trung thừa và Tiểu thừa. Đủ thứ pháp Thiền kể trên gọi
là Thiền Số Chi Học, khác hẳn với Thiền “chẳng lập
văn tự” của Thiền tông.
Thiền
Số Chi Học là Thiền tu tập theo thứ lớp, từ nhân đến
quả, mà pháp Thiền của tổ Đạt Ma là chỉ thẳng bản tâm,
đốn ngộ thành Phật, chẳng có giai cấp và thứ lớp. Người
ta thấy đệ tử ngài La Thập là Đạo Sanh có cái thuyết
“Đốn ngộ thành Phật”, bèn cho Thiền tông xuất phát từ
Cưu Ma La Thập, ấy là sai lầm.
Cùng
thời với tổ Đạt Ma có Bửu Chí hòa thượng, Bố Đại
Sĩ, Hàn Sơn, Thập đắc, Bố Đại hòa thượng, đều là người
minh tâm kiến tánh, nhưng thừa kế thầy nào chẳng rõ, sở
duyên ngộ đạo cũng chẳng thể khảo sát.
5-
THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA.
Trước
khi tổ Đạt Ma chưa đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều
Trung, Tiểu nhị thừa, kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối
tu ngày càng phức tạp và chi ly, học giả ít được chứng
ngộ. Khi tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn Tâm địa
của Như lai, pháp ấy lại giản dị trực tiếp, thấu thoát
ra ngoài cương yếu của giáo môn, chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật. Từ đó pháp Thiền riêng mở một trạng
thái mới lạ. Lúc ban sơ vì phương pháp cao siêu, ít người
được khế hội, nên ngồi im lặng chín năm để đợi người
đặng truyền thừa, về sau ngày tin càng đông thêm, sự ảnh
hưởng làm cho pháp Thiền và giáo lý đã truyền từ xưa bị
lay động, nên đã sáu lần bị đầu độc, nhưng pháp môn
trực chỉ của Thiền tông đã thay thế cho địa vị pháp
Thiền cũ mà thịnh hành khắp Trung Quốc.
Xem
qua lời vấn đáp của tổ Đạt Ma đều là pháp chỉ thị
Phật tánh, thẳng vào cội nguồn Bản thể. Trong Truyền Đăng
Lục có ghi: “Nhập Đạo Tứ Hạnh” của Tổ dạy, cứu
xét kỹ do người khác giả mạo, so với ý nghĩa lời nói
của Ngài hoàn toàn khác hẳn, như trong bài nói “Bỏ vọng
về chơn”, “Im lặng ngó hẳn vách tường”, “Dứt tưởng
chẳng cầu, có cầu đều khổ, chẳng cầu mới vui”, “Chẳng
có bỏn xẻn đối với thân mạng tiền tài, theo hạnh xả
bỏ bố thí, tâm chẳng hối tiếc”… Những lời này toàn
là lời dạy của Trung, Tiểu nhị thừa, so với lời “Quách
nhiên vô thánh”, “Vô hữu công đức” của tổ Đạt Ma
thì ý chỉ tuyệt nhiên xa cách, trí thông với nghẽn đã phân
biệt rõ ràng.
Thiền
tông sau khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu có tu thì chẳng
phải triệt ngộ, tổ Đạt Ma là bậc Thánh đã ngộ, đâu
cần hướng vách tu thiền! Lại từ xưa nay chư Tổ của Thiền
tông đều phản đối sự lắng tâm tĩnh tọa, Lục Tổ nói:
“Kẻ mê lắng tâm tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự
xưng là đại, bọn này chẳng thể dạy bảo, vì tà kiến
đã sẵn”. Lại nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chẳng
phải Thiền, ngồi lâu trói thân, có ích lợi gì!”
Pháp
Thiền của tổ Đạt Ma phế bỏ hư văn, chỉ ngay thực tế,
khiến người đốn ngộ cội nguồn, thẳng chứng quả Phật,
nên được quét sạch những tệ đoan phức tạp và chi ly,
khiến Thiền học từ suy sụp trở thành thịnh vượng, thành
một Tông phái lớn. Ngài truyền kinh Lăng Già để ấn tâm,
và chư Tổ đời sau dùng hét dùng gậy, dùng phẩn nộ chửi
mắng, cho đến dùng nhướng mày chớp mắt để tiếp dẫn
hậu học, với Tông chỉ Lăng Già, niêm hoa thị chúng đều
chẳng khác biệt.
Tổ
Đạt Ma được tôn làm Sơ Tổ của Thiền tông, truyền cho
nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ
tổ Hoằng Nhẫn, đến lục tổ Huệ Năng, môn đồ của Lục
Tổ ngộ đạo rất nhiều, Thiền phong đại thịnh, Tứ Tổ
có chi nhánh Pháp Dung thiền sư ở núi Ngưu Đầu, cũng rất
thịnh vượng, người đời xưng là Ngưu Đầu Thiền, hành
trạng và lời khai thị của chư Tổ đều có ghi trong Truyền
Đăng lục.
6-
LỤC TỔ HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN.
Tổ
Đạt Ma truyền pháp Thiền trực chỉ của Phật Thích Ca, đến
lục tổ Huệ Năng được phát huy cùng tột, từ đó Thiền
tông được đại thành tựu. Lục Tổ vốn là một Sa môn
không biết chữ, nhưng trí huệ tuyệt đỉnh, phàm sở phát
huy đều xuất phát từ biển giác của Như lai, trực tiếp
rốt ráo, cắt đứt tất cả dây dưa, trừ bỏ tất cả sai
lầm, rất là thân thiết, rất là thấu triệt.
Trước
kia trong Phật giáo đối với lý đốn tiệm của Pháp thân
tự tánh, phần nhiều kẹt nơi văn tự. Lục Tổ trực tiếp
chỉ ra, như thổi tan mây mù mà bỗng hiện trong sáng, chẳng
còn một hạt bụi để ngăn cách, do đó Thiền tông truyền
bá rất rộng, người được lợi ích rất nhiều, cho đến
kẻ cu ly hạ tiện, bà già tay bưng vai gánh rêu rao mua bán
ngoài đường đều biết Tham thiền, đều được ngộ đạo.
Từ lúc ấy, người minh tâm kiến tánh chẳng thể kể xiết,
thật là việc hưng thịnh từ xưa nay chưa từng có.
Bản
sắc “chẳng lập văn tự” của Thiền tông từ Sơ Tổ cho
đến ngũ tổ Hoằng Nhẫn, những lời dạy bảo truyền thừa
rất ít, đến lục tổ Huệ Năng mới có kinh Pháp Bảo Đàn
ra đời, pháp Thiền của tổ Đạt Ma tới đây mới được
trọn vẹn hiển bày. Lý đạo phát huy trong kinh Pháp Bảo Đàn
hoàn toàn xuất phát từ tự tánh, mỗi lời mỗi chữ đều
chẳng lìa tự tánh, bởi vì sau khi chứng ngộ thì trong tâm
thất thông bát đạt, tùy tiện đem ra đều là tự tánh.
Pháp
của Lục Tổ nói là: Trì tự tánh giới, phát tự tánh nguyện,
nhờ tự tánh lực, độ tự tánh chúng sanh, quy y tự tánh
Phật. Lục Tổ nói: “Thiện tri thức, nơi niệm niệm tự
thấy bản tánh trong sạch, tự tu, tự hành, tự thành Phật
đạo”. Lại nói: “Pháp sở thuyết của ta chẳng lìa tự
tánh, nếu lìa bản thể thuyết pháp gọi là tướng thuyết,
làm cho tự tánh thường mê. Phải biết tất cả vạn pháp
đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là Giới, Định, Huệ chơn
thật”.
Thiền
tông lấy Niết bàn diệu tâm làm bản thể. NIết bàn diệu
tâm tức là Lục Tổ nói: “Bản nguyên tự tánh”, vậy kinh
Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu khởi chơn chánh Bát nhã, trong một
sát na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh, hễ ngộ
liền đến địa vị Phật. Thiện tri thức, trí huệ quán
chiếu, trong ngoài sáng tỏ, nhận tự bản tâm, nếu nhận
được bản tâm, tức vốn giải thoát; nếu được giải thoát
tức là Bát nhã tam muội”.
Thế
nào là Bát nhã tam muội? Người tham thiền cần phải biết
rõ, nay đặc biệt giảng rõ như sau:
Bát
nhã có ba thứ:
1/
Thật tướng Bát nhã (thể).
2/
Quán chiếu Bát nhã (trí).
3/
Phương tiện Bát nhã (dụng).
Nói
một cách khác: Thật tướng bát nhã tức là Phật tánh, quán
chiếu Bát nhã là kiến, văn, giác, tri, phương tiện Bát nhã
tức là lục căn. Lúc đang tu hành, dùng quán chiếu Bát nhã
làm chủ, sai khiến phương tiện Bát nhã để đập tan vô
thỉ vô minh thì chứng Thật tướng Bát nhã. Sau khi chứng
ngộ, Thật tướng tức là Bản thể Phật tánh, quán chiếu
phương tiện là diệu dụng Phật tánh. Thật tướng là Định,
quán chiếu phương tiện là Huệ; Thật tướng (Phật tánh)
là Pháp thân, quán chiếu (kiến văn giác tri) là Báo thân,
phương tiện (lục căn) là Ứng thân, ba tức một, một tức
ba, gọi là nhất thể tam thân, thể dụng như một, Định,
Huệ bình đẳng, diệu dụng hằng sa.
Kinh
Pháp Bảo Đàn nói: “Tâm lượng rộng lớn, cùng khắp pháp
giới, dụng tức liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết
tất cả. Tất cả là một, một là tất cả, khứ lai tự
do, tâm thể vô ngại, tức là Bát nhã”. Lại nói: “Tất
cả trí Bát nhã đều từ tự tánh mà ra, chẳng từ ngoài
vào, chớ nhận lầm tự tâm, gọi là Chơn tánh tự dụng”.
Về
việc phá tan vô thỉ vô minh, kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nên
dùng đại Trí huệ (quán chiếu Bát nhã) phá tan ngũ uẩn trần
lao (vô thỉ vô minh), tu hành như thế nhất định thành Phật”.
Lúc dụng công phu tham thiền, dùng trí huệ Bát nhã hướng
ngay chỗ hầm sâu vô minh chiếu soi, chiếu đến khi sơn cùng
thủy tận, cơ duyên thuần thục, “Ồ” lên một tiếng thì
hầm sâu vô minh bị phá tan, trong một sát na Phật tánh được
hiện tiền, kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay đó hoát nhiên, liền
đắc bản tâm” là vậy, lúc ấy Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhãn,
Lục thông, viên mãn cụ túc, chẳng thiếu chẳng dư, gọi
là Bát nhã tam muội, cũng gọi là Minh tâm kiến tánh.
7-
HÀ TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG.
Lục
tổ Huệ Năng và Thần Tú đại sư đều là đệ tử của
Ngũ Tổ, Thần Tú chủ trương Tiệm tu, chưa minh tâm kiến
tánh, nên bài kệ “Thân như cây bồ đề” là phát huy nơi
Nhân địa. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh, nên bài kệ “Bồ
đề vốn chẳng cây” là phát huy nơi Quả địa, ngay đó
đem Niết bàn Diệu tâm trọn vẹn trình ra được Ngũ Tổ
ấn khả, truyền cho y pháp.
Lúc
Lục Tổ đang hoằng tông chỉ Đạt Ma ở Tào Khê, Thần Tú
đại sư thì xướng pháp Thiền tiệm tu ở Nam Kinh, gọi là
Bắc tông. Sau khi Lục Tổ viên tịch, pháp tiệm tu của Bắc
tông ngày càng hưng thịnh, môn đồ của Thần Tú có ba vị
Quốc Sư, trong đó có Phổ Tịch thiền sư danh giá cao nhất,
từng làm Quốc Sư trải qua ba đời vua Tắc Thiên, Trung Tông
và Duệ Tông. Phổ Tịch tôn Thần Tú làm Lục Tổ, tự xưng
là Thất Tổ, tông chỉ của Tào Khê ngày càng chìm lặng,
do đó đệ tử của Lục Tổ là Thần Hội thiền sư, phấn
chấn đứng ra chỉ trích môn tiệm tu của Bắc tông chẳng
phải chánh thống của tổ Đạt Ma, chỉ có tông chỉ Tào
Khê mới là đích truyền. Ngày 15 tháng giêng năm thứ 20 niên
hiệu Khai Nguyên, Ngài ở Hoạt Đài (Hoạt Huyện tỉnh Hà
Nam) Đại Vân Tự thiết lập vô giá đại hội, xác định
pháp thống Thiền tông do tổ Đạt Ma truyền. Năm thứ 8 niên
hiệu Thiên Hữu, một lần nữa xác định tông chỉ Nam tông
tại Lạc Dương, từ đó chánh thống Thiền tông là Lục Tổ
Tào Khê mới được xác định.
Thần
Hội xác định Tông chỉ là công thần của Thiền tông mà
lịch sử ít ghi chuyện này, nơi thạch động Đôn Hoàng có
ghi bài “Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Thị Phi Luận do Độc Cô
phái soạn” hiện nay lưu tại viện bảo tàng Ba Lê, trong
bài này là ghi việc định Tông chỉ của ngài Thần Hội ở
Đại Vân Tự Hoạt Đài.
Thần
Hội còn có bài Hiển Tông Ký để hiển bày Tông chỉ của
Tào Khê, ngoài ra tác phẩm Chứng Đạo Ca cũng làm cùng lúc
xác định Tông chỉ. Nay Chứng Đạo Ca đổi tên là Vĩnh Gia
Chứng Đạo Ca, nhưng tôi đã từng thấy một bản đời nhà
Tống ghi rõ tác giả là Thần Hội, nay trích ra mấy đoạn
trong Chứng Đạo Ca để chứng tỏ:
Dựng
pháp tràng, lập tông chỉ,
Rõ
ràng Tào Khê là kế thừa,
Bắt
đầu truyền đăng từ Ca Diếp,
Hai
mươi tám đời truyền từ Ấn,
Pháp
lưu Đông, vào đất này,
Bồ
Đề Đạt Ma làm Sơ Tổ,
Sáu
đời truyền y thiên hạ hay,
Đời
sau đắc đạo vô số kể.
Khi
xác định Tông chỉ giành chánh thống ở Hoạt Đài, bằng
chứng hiệu lực nhất là việc truyền y pháp, trong Hiển Tông
Ký có nói: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, hai mươi tám vị
Tổ ở Ấn Độ cùng nhau truyền tâm vô trụ, đồng thuyết
tri kiến của Như lai, cho tới tổ Đạt Ma đến Trung Quốc
là Sơ Tổ, truyền Y để làm tin cho Pháp, Pháp là chỗ nương
của Y, Thiền tông lấy Y, Pháp tương truyền, ngoài ra chẳng
có pháp khác. Trong truyền Tâm ấn để ấn chứng Bản tâm,
ngoài truyền Cà Sa để đại biểu Tông chỉ”.
Trong
Nam tông xác định Thị Phi Luận có nói: “Nay Thần Hội có
thiết lập vô giá đại hội và trang nghiêm đạo tràng, chẳng
vì công đức, chỉ muốn xác định Tông chỉ cho người học
khắp thiên hạ, vì tất cả người học đạo phân rõ thị
phi”.
-Than
mạt pháp, thời ác thế,
Chúng
sanh phước kém khó dạy dỗ,
Cách
xa bậc Thánh tà kiến sâu,
Ma
mạnh pháp yếu nhiều oán ghét.
Vừa
nghe đốn giáo của Như lai,
Liền
muốn diệt cho tan rã hết.
٭
-Pháp
viên đốn chẳng nhơn tình,
Nghi
chẳng giải quyết cần phải giành,
Chẳng
phải Sơn Tăng chấp nhơn ngã,
Tu
hành sợ đọa hầm đoạn thường.
Theo
việc tranh luận của ngài Thần Hội là muốn phá cửa Tiệm
tu của Thanh Tịnh Thiền mà kiến lập cửa Đốn ngộ của
Tổ Sư Thiền vậy.
-Mặc
người phỉ, mặc người báng,
Lấy
lửa đốt trời tự lao nhọc,
Ta
nghe đồng như uống cam lồ,
Tiêu
tan bỗng vào bất tư nghì.
Quán
ác ngôn là công đức,
Phỉ
báng ta là thiện tri thức,
Chẳng
vì phỉ báng nói yêu ghét,