|
.
CỘI NGUỒN
TRUYỀN THỪA &
Phương Pháp
Tu Trì Của Thiền Tông
Nguyên
Tác: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch giả: Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Đường, Anaheim, California Hoa Kỳ Xuất Bản 1991 PL
2535
|
|
.
PHỤ
LỤC
NGUYỆT
KHÊ PHÁP SƯ
CAO
NGỌA XỨ BI VĂN
Sư
húy Tâm Viên, hiệu Nguyệt Khê, họ Ngô, tổ tiên là người
Tiền Đường tỉnh Triết Giang, lập nghiệp ở Côn Minh tỉnh
Vân Nam, truyền được ba đời đến Sư, cha là Tử Trang, mẹ
là Lục Thánh Đức, sanh được năm con, Sư là út. Sư yếu
đuối nhưng thích học, sớm đã thông minh đĩnh ngộ, theo
học Nho với Uông Duy Dần tiên sinh. Năm 12 tuổi đọc Lan Đình
Tập Tự đến câu “Tử sanh diệc đại hỷ, khí bất thống
tai” (Tử sanh là việc lớn, há chẳng đau khổ ư!), bỗng
nhiên có giải ngộ; mới hỏi thầy rằng: “Làm thế nào
có thể sanh chẳng tử được?” Uông tiên sinh bảo: “Nhà
Nho nói: “Chưa biết sanh làm sao biết tử, lời này phải
hỏi nhà Phật học”.
Bèn
đến hỏi nhà Phật học, nhà Phật học bảo: “Nhục thể
và linh tánh của kiến, văn, giác, tri đều ở trong lục đạo
sanh tử luân hồi, Phật tánh thì như như bất động, bất
sanh bất tử. Nếu chưa thấy Phật tánh thì Phật tánh luân
hồi theo linh tánh của kiến, văn, giác, tri; nếu thấy Phật
tánh tràn đầy hư không thì linh tánh của kiến, văn, giác,
tri biến thành Phật tánh”.
Sư
hỏi: “Dùng cách nào mới thấy được Phật tánh?” Nhà
Phật học không đáp được, mới trao cho sư các kinh Bốn
Mươi Hai Chương và kinh Kim Cang. Từ đó nhân dịp theo học
trường ở Thượng Hải, Sư kiêm thêm Phật học, cũng chuyên
tâm nghiên cứu các sách của Lão Trang, xem hết Lục Kinh của
nhà Nho, tham học hết các danh sư ở Giang Tô, Triết Giang,
lễ bái các Đại đức, trình câu của nhà Phật học bảo
“Dùng cách nào mới có thể minh tâm kiến tánh” ra hỏi,
nhưng các đáp án Sư đều chưa thỏa mãn.
Bấy
giờ Tôn túc Diệu Trí dạy hãy khán thoại đầu “Niệm Phật
là ai?” và nghiên cứu Đại Trí Độ Luận. Năm 19 tuổi,
Sư quyết chí xuất gia xiển dương chánh pháp, hồi nhỏ cha
mẹ đã đính hôn cho Sư, Sư kiên quyết không lấy vợ. Vào
năm ấy lễ Tỉnh An hòa thượng ở nơi đó xin xuống tóc
thọ đại giới. Vừa xuất gia đã tinh tiến dũng mãnh, nơi
Phật tiền đốt hai ngón út và áp út tay trái, cùng cắt miếng
thịt to bằng bàn tay, trên đó đốt bốn mươi tám liều cúng
dường Phật, phát ba đại nguyện:
1.
Chẳng ham ăn ngon, mặc đẹp, siêng tu khổ hạnh chẳng bao
giờ lui sụt.
2.
Tham duyệt khắp tất cả kinh điển, khổ công tham cứu.
3.
Đem hết sở đắc diễn giảng chỉ dạy để quảng lợi quần
sanh.
Mỗi
ngày trừ việc xem Kinh ra, Sư còn tụng Phật hiệu năm ngàn
tiếng, luôn tụng Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Lăng Nghiêm. Lúc rãnh
rỗi có khóa lễ bái kinh Viên Giác, Sư ông của Sư bảo rằng:
“Tu như ngươi thì tại gia cũng được, cần gì phải xuất
gia! Chẳng cần hiện Tăng tướng, cần phải chuyên tu pháp
môn hướng thượng (Tổ sư thiền) mới là việc lớn bổn
phận người xuất gia”, rồi dạy khán thoại đầu “Muôn
pháp về một, một về chỗ nào?” và trao cho Truyền Đăng
Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục; Sư xem qua có
cái biết có cái không. Sư rất thích Lâm Tế Ngữ Lục, nhưng
cách dụng công như thế nào vẫn còn chưa rõ. Sư về sau theo
Ngộ Tham pháp sư học giáo lý của các tông Thiên Thai, Hiền
Thủ, Từ Ân.
Năm
22 tuổi liền ra giảng kinh thuyết pháp, thính giả rất đông.
Đáp lời mời của Pháp hội Lăng Già ở Nam Kinh, Sư thị
chúng rằng: “Chúng sanh bản lai là Phật, chỉ vì vọng niệm
vô minh nên không liễu thoát sanh tử được, nếu phá một
phần vọng niệm vô minh thì được chứng một phần Pháp
thân, vọng niệm vô minh phá hết thì Pháp thân hiển lộ”.
Bấy
giờ trong Pháp hội có Tôn túc Khai Minh hỏi rằng: Nếu vọng
niệm vô minh từ ngoài đến, không có dính dáng gì với ông
thì cần gì dứt nó? Nếu vọng niệm từ bên trong sanh ra,
ví như nguồn suối luôn luôn có nước chảy, dứt rồi lại
sanh, sanh rồi lại dứt, đến khi nào mới hết! Tu hành như
thế thật chẳng có chỗ đúng! Vọng niệm dứt là Phật tánh,
vọng niệm khởi là chúng sanh, vậy thành Phật cũng có luân
hồi ư?
Sư
không trả lời được.
Lại
hỏi tiếp: Pháp sư chưa từng minh tâm kiến tánh, trong Kinh
chẳng có những lời này, những lời này là có được từ
các chú giải; người kiến tánh chú giải thì chẳng sai, người
chưa kiến tánh chú giải nói Nam ra Bắc, lôi Đông bỏ Tây,
thị phi điên đảo có phải không?
Sư
đáp: Phải. Sư đảnh lễ Tôn túc và trình lời nhà Phật
học nói về “Dùng cách nào mới có thể minh tâm kiến tánh?”
Tôn
túc bảo: Lời này Pháp sư nên đến hỏi Tông sư Thiết Nham
ở Ngưu Đầu Sơn là người đã chứng ngộ.
Ngay
đêm ấy, Sư đến hỏi Thiết Nham rằng: Lão Hòa thượng ở
đây làm gì?
Nham
bảo: Mặc áo, ăn cơm, ngủ nghỉ, dạo núi, ngắm sông.
Sư
nói: Đáng tiếc cho sự uổng qua ngày tháng của Ngài!
Nham
nói: Ta uổng qua thì được, nhưng ngươi không thể học ta
uổng qua. Nếu ngươi đến được miếng điền địa kia thì
cũng có thể học ta uổng qua vậy!
Sư
nói: Thế nào là miếng điền địa kia?
Nham
dựng một ngón tay lên.
Sư
đáp lại: Con không biết! Sư hỏi “Hiện nay con đem vọng
niệm dứt sạch, chẳng trụ hữu vô, vậy có phải miếng
điền địa kia không?”
Nham
bảo: Không phải, đó là cảnh giới vô thỉ vô minh.
Sư
hỏi: Lâm Tế tổ sư nói đó là hầm sâu đen tối của vô
minh thật đáng sợ, có phải vậy không?
Nham
bảo: Phải.
Sư
trình câu nói của nhà Phật học về: Dùng cách nào mới có
thể minh tâm kiến tánh được?
Nham
bảo: Ngươi chớ nên dứt vọng niệm, nên dùng nhãn căn nhìn
thẳng vào chỗ hầm sâu đen tối chẳng trụ hữu vô ấy,
đi, đứng, nằm, ngồi chẳng được gián đoạn, khi nhân duyên
đến, “ồ” lên một tiếng, hầm sâu đen tối của vô minh
tan rã thì được minh tâm kiến tánh.
Sư
nghe lời này như uống nước cam lồ, từ ấy ngày đêm khổ
tham, hình dung tiều tụy, ốm như cây củi, một đêm nghe tiếng
gió thổi lá cây ngô đồng thì hoát nhiên chứng ngộ, mồ
hôi như tắm, rằng “ồ” là vậy là vậy! Chẳng xanh chẳng
trắng cũng chẳng tham thiền, cũng chẳng niệm Phật, cũng
chẳng sanh tử đại sự, cũng chẳng vô thường tấn tốc,
liền thuyết kệ rằng:
Bản
lai chẳng Phật chẳng chúng sanh,
Thế
giới chưa từng thấy một người,
Thấu
liễu cứu cánh là cái này,
Tự
tánh vẫn là tự mình sanh.
Nhìn
ra ngoài cửa sổ chính là vào canh tư, trăng treo trên nền
trời xanh tít không dợn chút mây. Mấy ngày sau Sư đến Thiết
Nham, nói: Chẳng cầu pháp môn dụng công, chỉ cầu lão Hòa
thượng ấn chứng.
Thiết
Nham đưa cây gậy lên ra thế đánh hỏi Sư rằng: Tào Khê
chưa gặp Hoàng Mai, ý chỉ như thế nào?
Sư
đáp: Lão Hòa thượng muốn đánh người.
Thiết
Nham lại hỏi: Sau khi gặp ý chỉ như thế nào?
Sư
vẫn đáp rằng: Lão Hòa thượng muốn đánh người.
Nham
gật đầu.
Sư
đem sở ngộ trình Thiết Nham.
Nham
bảo: Ngươi chứng ngộ rồi, nay ta ấn chứng cho, ngươi có
thể đem Truyền Đăng Lục để ấn chứng thêm. Đại sự
ngươi đã xong, có nhân duyên thì thuyết pháp độ sanh, chẳng
nhân duyên có thể tùy duyên qua ngày.
Sư
bèn đem Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt Lục, Ngũ Đăng Hội
Nguyên và kinh Hoa Nghiêm để ấn chứng, tất cả thấu rõ
như nói chuyện việc nhà vậy, chẳng có việc lạ.
Từ
đó về sau, Sư giảng Kinh thì theo trong Kinh nói: “Thường
giữ Phật tánh, không có biến đổi, Phật tánh chẳng nhiễm
chẳng loạn, chẳng ngại chẳng chán, chẳng thọ huân nhiễm,
chẳng khởi vọng niệm, vì vọng niệm sanh khởi từ linh tánh
của kiến, văn, giác, tri trừ bỏ bốn bệnh chỉ, tác, nhậm,
diệt, chẳng dứt vọng niệm, dùng một niệm để phá tan
vô thỉ vô minh làm chủ yếu”.
Sư
giảng kinh thuyết pháp đều trong tự tánh nói ra, chẳng xem
chú giải của người khác. về sau thể theo lời mời của
các tỉnh Trung Quốc cho đến Hương Cảng, Áo Môn; Sư đăng
đàn thuyết pháp liên tiếp mấy chục năm, giảng kinh hơn
hai trăm năm mươi hội, cứ một kinh là một hội.
Tánh
Sư siêu nhiên, hành cước các nơi như Chung Nam, Thái Bạch,
Hương Sơn, Hoa Sơn, Nga Mi, Cửu Hoa, Phổ Đà, Ngũ Đài, Thái
Sơn, Hoàng Sơn, Võ Đang, Lư Sơn, Mao Sơn, Mạc Can, Lao Sơn,
Hằng Sơn, La Phú Sơn… Mỗi khi hành cước nơi rừng sâu núi
cao mấy tháng quên về, đến danh sơn nào cũng có thi đối.
Sư giỏi đàn thất huyền, hành cước đều mang đàn theo,
Sư tiết tháo cao cả, độ lượng rộng lớn, chẳng ứng thú
theo thói đời, hình dáng sáng suốt hùng vĩ, đến bậc túc
Nho thông đạt cũng hạnh trang nghiêm đơn giản của Sư, trứ
tác thi văn bày tỏ bản sắc siêu việt pháp thế gian.
Sư
lúc già đưa một ngón tay vì môn đồ thuyết pháp rằng: “Đến
từ cùng khắp hư không đến, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca;
đi từ cùng hư không đi, Quan Thế Âm, Phật Di Đà. Chư Phật
cổ kim đều ở trên đầu ngón tay của lão Tăng, chẳng đi
chẳng đến; lão Tăng cũng ở trên đầu ngón tay, chẳng đi
chẳng đến. Các ngươi nếu nhận được thì đó là chỗ
an thân lập mạng của các ngươi!”
Thuyết
kệ rằng:
Giảng
kinh thuyết pháp mấy mươi năm,
Độ
sanh, vô sanh muôn muôn ngàn.
Đợi
khi một ngày thế duyên hết,
Đầy
khắp hư không đại tự tạ.
Sư
phó chúc đệ tử rằng: Tứ đại theo nhân duyên, có sanh ắt
có diệt; tự tánh vốn vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Nay nói
có sanh ắt có diệt là tứ đại phải có chỗ về. Chỗ về
chọn trên đỉnh Bảo Mã Sơn, sau làng Đỗ Gia Dinh, ngoài cửa
nam thành phố Côn Minh nhìn xuống, ngay hồ Côn Minh làm cao
ngọa xứ.
Suốt
đời sư chưa độ một đệ tử xuất gia, đệ tử tại gia
hơn một trăm sáu mươi ngàn người. Sư tùy theo căn cơ đệ
tử mà dạy tu pháp môn khác nhau, trong đó có tham thiền ngộ
đạo có tám người: Ngũ Đài Tịch Chơn, Minh Tịnh Tôn Túc,
cư sĩ Lý Quảng Quyền ở Bắc Bình, cư sĩ Chu Vận Pháp ở
Thượng Hải, còn bốn người đã qua đời từ trước.
Sư
có trứ tác: Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục, Lăng Già Kinh Giảng
Lục, Viên Giác Kinh Giảng Lục, Kim Cang Kinh Giảng Lục, Phật
Giáo Nhân Sinh Quan, Phật Pháp Vấn Đáp Lục, Đại Thừa Bát
Tông Tu Pháp, Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, Nguyệt Khê Ngữ
Lục, Tham Thiền Tu Pháp, Niệm Phật Tu Pháp, Vĩnh Phong Đường
Cầm Khóa.
Ngày
rằm tháng hai năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 60 (1971 CN).
Đệ
tử Trí Viên kính soạn và viết.
٭
TIỂU
TRUYỆN
của
NGUYỆT
KHÊ PHÁP SƯ
Tác
giả: Mục sư Vương Cảnh Khánh.
Tôi
với Nguyệt Khê pháp sư quen biết đã hơn ba mươi năm, cùng
ở xứ Sa Điền Hồng Kông, lúc rảnh rỗi thường qua lại
thăm nhau, mặc dù tín ngưỡng chẳng đồng, nhưng tâm chúng
tôi hình như có một linh tánh thông nhau, mỗi khi gặp nói
chuyện, hai người đều cảm thấy rất khế hợp. Tôi rất
thích Sư tánh tình ngay thẳng, tâm chẳng quanh co, tiếng nói
hùng dũng, thành thật thiết tha, chẳng khách sáo, chẳng giả
dối.
Nhìn
theo hình tướng bề ngoài Sư rất giống một kẻ ăn xin, mặc
quần áo cũ và rách, chân chẳng giày vớ, mùa lạnh mùa nóng
cũng thường mang một đôi dép cũ, cầm một cây gậy, một
túi vải nhỏ, tóc dài xòe vai, còn để bộ râu thưa thớt,
hình dáng là một khổ hạnh Đầu đà, khi đi xe lửa hoặc
xuống bắc qua biển, thường mua vé hạng chót, không khi nào
vì mình mà lãng phí đồng xu. Có người nói: “Sư chẳng
phải không có tiền, Sư là một triệu phú”, Sư phải triệu
phú hay không, ở đây tạm gác qua một bên, sau này sẽ bảo
cho biết. Mỗi lần tôi gặp Sư trên xe lửa, mặc dù tôi đã
mua vé hạng nhì, nhưng vẫn thích cùng ngồi ghế hạng chót
với Sư để được nói chuyện với nhau. Bạn bè thường
chê cười tôi rằng: “Ông không sợ bị lây con rệp của
Sư kia chăng?” Sở dĩ ông bạn này cười tôi, là vì ông
chẳng nhận biết cái tâm của Nguyệt Khê pháp sư.
Tôi
với Nguyệt Khê pháp sư, chẳng phải nhìn theo hình tướng
bề ngoài mà nhìn theo nội tâm của Sư. Nội tâm của Sư rất
tốt đẹp, nhân sinh quan và tư tưởng của Sư rất viên mãn,
đủ cho người đời thưởng thức. Sư mười chín tuổi xuất
gia, suốt đời phụng sự Thiền tông, đối vớ Phật pháp
có kiến giải mở mang sáng tỏ.
Sư
họ Ngô, là người Côn Minh tỉnh Vân Nam, căn cứ lời của
Sư nói, lúc 12 tuổi đọc Lan Đình Tập Tự đến câu “Sanh
tử là việc lớn, há chẳng khổ thay!” Từ đó bắt đầu
suy nghĩ làm sao giải quyết việc lớn sanh tử. Đến tuổi
19 theo Tịnh An hòa thượng xuống tóc, khi mới xuất gia, nhiệt
tình hồ đồ, phát tâm trước tượng Phật đốt ngón út
và ngón áp út bên tay trái, còn cắt ở trước ngực một
miếng thịt lớn như bàn tay, lại đốt thêm bốn mươi liều
ngay chỗ vết thương trên ngực để cúng dường Phật.
Lúc
22 tuổi Sư bắt đầu giảng kinh thuyết pháp. Sư nói: “Chúng
sanh bổn lai là Phật, chỉ vì vô minh vọng niệm nên sanh tử
chẳng thể giải thoát. Nếu phá được một phần vô minh
vọng niệm thì chứng đắc một phần Pháp thân. Khi vô minh
vọng niệm phá sạch thì Pháp thân hiển lộ”. Lời này hiển
nhiên là lối tu dùng công phu tiệm tiến như lời của Thần
Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi, chớ cho dính bụi trần”.
Khi ấy có một thính giả là người lão tu hành, nghe xong lại
hỏi Sư: “Nếu vô minh vọng niệm từ bên ngoài đến thì
chẳng dính dáng với Sư, đâu cần cần đoạn dứt nó! Nếu
vọng niệm từ bên trong ra thì giống như nguồn suối luôn
luôn có nước ra, dứt rồi lại ra, ra rồi lại dứt đến
khi nào mới hết! Sư nói vọng niệm dứt sạch là Phật tánh,
vậy thì thành Phật cũng có luân hồi, hành như thế thật
chẳng có chỗ đúng”.
Ngay
đó Nguyệt Khê pháp sư chẳng thể trả lời câu hỏi của
người lão tu hành, bèn khiêm tốn xin chỉ dạy. Lão tu hành
nói: “Sư nên đi núi Ngưu Thủ tìm Hòa thượng Thiết Nham”.
Đêm đó Sư liền vâng lời tìm đến yết kiến Thiết Nham
hòa thượng mà hỏi:
-Lão
Hòa thượng ở đây làm gì?
-Mặc
áo, ăn cơm, ngủ nghỉ, dạo núi, ngắm sông.
-Vậy
há chẳng phải uổng qua ngày giờ chăng?
-Ta
thì uổng qua được, nhưng ngươi thì chẳng thể học ta uổng
qua. Nếu ngươi đến chỗ “miếng điền địa kia” thì cũng
được học ta bỏ uổng qua ngày.
-Thế
nào là chỗ miếng điền địa kia? Nay con đem vọng niệm dứt
sạch, chẳng trụ nơi hữu và vô, vậy phải là chỗ “miếng
điền địa kia” chăng?
-Không
phải, sở thấy của ngươi là cảnh giới vô thỉ vô minh,
là chỗ hầm sâu đen tối lắng lặng của vô minh, ngươi chớ
nên dứt vọng niệm, nên dùng nhãn căn hướng ngay chỗ hầm
sâu đen tối chẳng trụ hữu vô đó nhìn thẳng, đi, đứng,
nằm, ngồi chẳng cho gián đoạn, khi nhân duyên đến, hầm
sâu đen tối của vô minh hễ phá tan thì được minh tâm kiến
tánh.
Từ
đó Sư ngày đêm khổ tham, cho đến hình dáng tiều tụy, ốm
lòi xương như cây củi, một đêm nghe tiếng gió thổi lá
ngô đồng, hoát nhiên đại ngộ, về sau đi hành cước bốn
phương, khắp danh sơn thắng cảnh như Chung Nam Sơn, Thái Bạch
Sơn, Hoa Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn, Ngũ Đài Sơn, Thái
Sơn, Tung Sơn, Huỳnh Sơn, Võ Đang Sơn, Lao Sơn, La Phù Sơn…
đi khắp các tỉnh Nam Bắc trong Trung Quốc. Khoảng năm 1933
đến Sa Điền, ban sơ ở Tây Lâm, tôi lần đầu tiên gặp
Sư vào năm 1934 tại phòng khách núi Đạo Phong, năm 1949 được
Phật tử triệu phú Giảng Ngọc Giai là chủ công ty thuốc
lá Nam Dương cúng dường Hối Tư Viện cho Sư để sáng lập
Phật học viện ở trên núi đối diện ga xe lửa Sa Điền.
Viện này sau vì một việc nhỏ mà bị giải tán. Nay người
du khách đến du lịch chỉ biết ấy là Vạn Phật Tự, chẳng
biết nguyên danh là Hối Tự Viện, thật ra Vạn Phật Tự
chẳng phải tên thiệt, chỉ vì Sư xây một ngôi điện Vạn
Phật, trước cửa điện đề hai chữ lớn là “Vạn Phật”,
nên du khách theo đó gọi là Vạn Phật Tự mà thôi.
Muốn
diễn tả tư tưởng nhân sinh của Sư chẳng phải là việc
dễ, nghe nói Sư có những tác phẩm như Duy Ma Kinh Giảng Lục,
Lăng Già Kinh Giảng Lục, Viên Giác Kinh Giảng Lục, Tâm Kinh
Giảng Lục, Phật Giáo Nhân Sinh Quan, Phật Pháp Vấn Đáp Lục,
Đại Thừa Bát Tông Tu Pháp, Đại Thừa Tuyệt Đối Luận,
Nguyệt Khê Ngữ Lục, Tham Thiền Tu Pháp… Nay trong tay tôi
chỉ có hai cuốn Phật Giáo Nhân Sinh Quan và Nguyệt Khê Pháp
Sư Ngữ Lục. Phật Giáo Nhân Sinh Quan do Diệp Chí Tôn là đệ
tử của Ngài biên soạn, chỉ có một trăm trang nói về giáo
lý thông thường, chẳng có chỗ đặc biệt. Nguyệt Khê Pháp
Sư Ngữ Lục khoảng bốn trăm năm mươi trang, cũng do đệ
tử của Ngài biên soạn, trong đó đều là lời khai thị nhiều
lần của Ngài, nay trích nhiều đoạn đặc sắc như sau:
- Dụng
công tu hành cần nhất là phá tan vô thỉ vô minh. Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Phá vô minh đen tối”. Kinh Viên Giác nói: “Vô thỉ
huyễn vô minh”. Kinh Thắng Man nói: “Đoạn dứt vô thỉ
vô minh”. Tổ sư Thiền tông gọi là Hầm sâu vô minh, Đầu
sào trăm thước… (trang 18).
- Sư
thượng đường thuyết pháp rằng: “Tuyệt đối chơn như
đầy khắp hư không vũ trụ, ấy là chơn không, tuyệt sắc
tướng, bổn lai diện mục là diệu minh, như như bất động,
chẳng có phương sở, chẳng có tên gọi. Ở đây nhận được
thì hoát nhiên giải thoát, liền thấy Phật tánh, tùy duyên
tiêu dao, mặc ý qua lại, có Phật pháp gì để học, sanh tử
để liễu, thiền đạo để tu, Niết bàn để chứng? Chẳng
có một pháp để thành, chẳng có chúng sanh để độ. Tam
tạng giáo điển đều là giấy trắng, một chữ cũng xài
chẳng được, một ngàn bảy trăm công án đều là đàm giải,
tất cả đều chẳng dính dáng. Thế nào là Phật? Cây gậy
của lão Tăng. Thế nào là pháp? Đôi giày cỏ của lão Tăng.
|