|
.
CỘI NGUỒN
TRUYỀN THỪA &
Phương Pháp
Tu Trì Của Thiền Tông
Nguyên
Tác: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch giả: Thích Duy Lực
Từ
Ân Thiền Đường, Anaheim, California Hoa Kỳ Xuất Bản 1991 PL
2535
|
|
4-
MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN.
Mục
đích của Tham thiền là gì? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái
quả minh tâm kiến tánh như thế nào? Là thấu triệt bổn
nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát sanh tử, chẳng thọ
hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh. Ấy
là mục đích cuối cùng của loài người.
Nhưng
muốn minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là
tâm tánh. Tâm tánh là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh,
cũng gọi là Phật tánh, hoặc gọi Chơn như, Như lai. Thiền
tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh pháp thân; Duy Thức
tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh
độ; Tam Luận tông gọi là Thật tướng bát nhã; Luật tông
gọi là Bổn nguyên tự tánh, Kim cang bửu giới; Thiên Thai
tông gọi là Tự tánh thật tướng; Hoa Nghiêm tông gọi là
Nhất chơn pháp giới; Mật tông gọi là Tịnh bồ đề tâm…
danh hiệu dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thức luận nói:
“Chơn là chơn thật, tỏ chẳng hư vọng. Như là như thường,
tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật này, nơi tất
cả pháp thường như bản tánh, nên gọi là Chơn như”. Kinh
Duy Ma Cật nói: “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang
nói: “Như lai là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”.
Theo
những kinh luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn
như tự tánh, chẳng phải tâm tánh của người đời. Người
đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức là vô minh, nay muốn
minh tâm là minh cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi là Chơn
như.
Kinh
Hoa Nghiêm phát huy cái lý Chơn như Phật tánh rất tường tận,
trong phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp
xuất thế gian, đối với thế gian vô thủ vô y, đối với
diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật, lìa
chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng
có ngằn mé; ví như chơn như, chơn thật làm tánh; ví như
chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi; ví
như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh… (còn rất
nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).
Đây
là cảnh giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân
chứng nhập, rồi dùng ngôn ngữ phương tiện để khai thị
cho chúng sanh, chúng sanh nghe rồi, hoặc ngơ ngác chẳng hiểu
gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho là minh
tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần
phải tự tham thực chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể
gọi là chứng ngộ, sở chứng với Phật chẳng khác, nên
gọi là kiến tánh thành Phật.
Thường
có kẻ thông minh lanh lợi, xem nhiều kinh điển mà được
giải ngộ, giảng giải cho người khác nghe, biện tài như
suối chảy mà thật thì chẳng biết chơn như Phật tánh là
vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây
Hồ, chỉ xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người
khác nghe giống như đã từng đi qua, thật thì chưa từng đích
thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp người đã từng du lịch
Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể trả
lời. Vì thế nên Thiền tông chủ trương chỉ thẳng tâm người,
chẳng lập văn tự là vậy.
Nên
biết, muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng,
người khác chẳng thể thay thế được, chẳng quí đa văn,
chỉ quí thấy ngay, từ ngoài cửa chẳng phải gia bửu, lời
của người khác nói chẳng dính dáng với mình.
Xưa
kia Hương Nghiêm hòa thượng ở trong hội Bá Trượng, thông
minh lanh lợi, hỏi một đáp mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi
cha mẹ chưa sanh nói thử một câu xem!” liền ngơ ngác chẳng
đáp được. Về liêu phòng tìm tra hết thảy văn tự xem qua,
muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được,
than rằng: “Bánh vẽ chẳng thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn
nói trắng ra. Qui Sơn nói: “Ta nói cho ngươi thì ngươi về
sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính dáng với
ngươi!” Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ,
thẳng qua Nam Dương, nghĩ tại di tích của Huệ Trung quốc
sư, tham cứu lâu ngày, một hôm nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng
miễng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, hoát nhiên tĩnh ngộ,
liền về tắm gội đốt nhang, hướng về Qui Sơn lễ bái
rằng: “Hòa thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó
vì con nói trắng ra thì đâu có việc kiến tánh hôm nay”.
Do
đó, mà xem Thiền tông chẳng lập văn tự, chỉ chú trọng
tham chứng, mà được tôn là phương thuốc hay của minh tâm
kiến tánh, pháp Thiền của Thiền tông được phổ biến khắp
Trung Quốc, đâu phải việc ngẫu nhiên!
5-
CÁC LOẠI THIỀN.
Thiền
là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật, các tông Đại,
Tiểu thừa đều có pháp thiền chuyên môn, ngoại đạo tà
sư cũng mỗi mỗi kiến lập pháp thiền của họ, tà chánh
lẫn lộn, tên gọi rất nhiều, cho nên người tu tập pháp
thiền của tông môn, trước tiên phải hiểu rõ pháp thiền
của các tông và phân biệt tà, chánh, chơn, ngụy, rồi mới
chẳng bị lầm vào lối tẻ, phân biệt được trắng đen.
Người xưa vì đáp sai một chữ, đọa thân chồn năm trăm
đời, hành giả nên cẩn thận! Phàm phá ngã chấp là chánh,
chấp ngã là tà; lối tu theo ngã chấp là ngoại đạo, tu đúng
tông chỉ là chơn, không đúng tông chỉ là ngụy, nay đại
khái đưa ra các loại thiền như sau:
1/
Tối Thượng Thừa Thiền:
Hành
giả sau khi chứng ngộ, trong tâm thất thông bát đạt, tùy
tiện đề ra một pháp đều là Phật pháp, nói nghịch nói
xuôi chẳng lìa chơn như, tất cả từ chơn tâm mình chảy
ra, che thiên ngập địa, từ Thế Tôn niêm hoa thị chúng cho
đến Tổ sư hét gậy, chửi, mắng, đều là trực chỉ chơn
như, trọn mâm đem ra, kẻ hoát nhiên kiến tánh thì chẳng
cách tơ hào, nếu còn do dự bèn cách xa muôn dặm, ấy là
Tối thượng thừa thiền.
2/
Như Lai Thiền Với Tổ Sư Thiền:
Như
Lai Thiền là Thiền giáo môn, chứng nhập từng bực như: Thập
tín, Thập trụ, cho đến Thập địa, Đẳng giác, còn có thể
giải thích; Tổ Sư Thiền thì không có thứ bậc, thẳng vào
bản thể Phật tánh chẳng thể giải thích. Người xưa có
một việc chứng tỏ:
Hương
Nghiêm hòa thượng sau khi chứng ngộ, thuyết bài kệ trình
ngài Qui Sơn rằng:
Tiếng
trúc quên sở tri,
Chẳng
cần nhờ tu trì.
Động
dung hiển lối xưa,
Chẳng
đọa nơi vắng lặng.
Mỗi
mỗi chẳng dấu tích,
Thanh
sắc ngoài oai nghi.
Người
đạt đạo bốn phương,
Đều
xưng thượng thượng cơ.
Qui
Sơn nghe rồi bảo Ngưỡng Sơn rằng: Ông này đã triệt ngộ.
Sau
Ngưỡng Sơn soát lại, Hương Nghiêm thuyết kệ rằng:
Năm
xưa nghèo chưa phải nghèo,
Năm
nay nghèo mới thật nghèo.
Năm
xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm
nay nghèo dùi cũng không.
Ngưỡng
Sơn nói: Như Lai Thiền thì cho sư đệ ngộ, Tổ Sư Thiền
thì chưa.
Hương
Nghiêm lại nói bài kệ khác:
Ta
có một cơ,
Nháy
mắt nhìn y.
Nếu
còn chẳng ngộ,
Chớ
gọi Sa di.
Ngưỡng
Sơn bảo với Qui Sơn rằng: Mừng cho Nhàn sư đệ đã ngộ
Tổ Sư Thiền.
3/
Thiền Na Thiền và Bát Nhã Thiền:
Thiền
Na Thiền là pháp thiền thứ năm trong sáu Ba La Mật, Bát Nhã
Thiền là sau khi đã minh tâm kiến tánh, phát huy đại dụng
để độ người, như việc niêm hoa thị chúng.
4/
Nhất Vị Thiền Và Ngũ Vị Thiền:
Phá
tan hầm sâu vô minh, minh tâm kiến tánh, đốn siêu Phật địa,
vào cảnh giới bất nhị, gọi là Nhất Vị Thiền. Ngoại
đạo thiền, phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa
thiền, Tối thượng thừa thiền, gọi chung là Ngũ vị thiền.
5/
Ba Thứ Tịnh Quán Thiền:
Tức
Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na, như kinh Viên Giác có
giải thích kỹ càng về ba thứ thiền quán này.
6/
Khô Mộc Thiền (Thiền Cây Khô):
Những
pháp thiền chấp ngồi suốt ngày đêm chẳng nhúc nhích như
dựng cây khô, cho ngồi lâu là cao, gọi là Khô mộc thiền.
7/
Tham Thiền Lầm Dụng Công Rất Dễ Phạm Những Bệnh Sau Đây:
1.
Chỉ bệnh: Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng
dừng lại, như nước biển chẳng nổi sóng, chẳng nổi một
bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, Đạo giáo thanh
tịnh quả dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này,
Phật tánh thì chẳng hợp với Chỉ.
2.
Tác bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi
niệm lành, nghịch trần hợp giác, nghịch giác hợp trần;
phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân; Lão Tử
“Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để
quán sai”; Khổng Tử “Chánh tâm thành ý”, nhà Nho “Trừ
bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn tại chánh tâm của thiên
lý”, ấy thuộc về bệnh này, Phật chẳng do Tác mà đắc. |