LỜI
DỊCH GIẢ
Đại
Huệ thiền sư (1088-1163), đời thứ 12 phái Lâm Tế, là một
thiền sư triệt ngộ, phương tiện cơ xảo rất xuất sắc
nổi tiếng từ lúc đương thời cho đến ngày nay. Các bậc
sĩ phu, quan lại triều đình từ Thừa tướng, Thượng thư...
đều quy y học thiền với ngài và có nhiều người đã được
chứng ngộ.
Ngữ
lục của ngài, chúng tôi dịch trực tiếp từ Chỉ Nguyệt
Lục (Lịch sử Thiền tông Trung Hoa) và từ Đại Tạng Kinh
(tập thứ 47), trong đó gồm các phần Tiểu sử, Phổ Thuyết,
Cơ Duyên, khám xét và các thư giải đáp về thiền cho các
sĩ phu. Vì số thư giải đáp quá nhiều nên chúng tôi lược
bỏ một số thư hoặc đoạn trùng ý nghiã. Ngữ lục của
ngài cũng đã được dịch sang tiếng Anh tên sách là THE LETTERS
AND LECTURES OF ZEN MASTER TA HUI, do CHRISTOPHER CLEAREY dịch.
TIỂU
SỬ TÔNG CẢO
ĐẠI
HUỆ THIỀN SƯ NGỮ YẾU
Sư
là người Tuyên Thành, họ Hy. Mẹ chiêm bao thấy một vị
Tăng mặt đen mũi cao có thần hộ vệ đến phòng.
Mẹ
hỏi: Ông ở đâu?
Tăng
ấy đáp: "Ở núi cao lớn này", từ đó có nghén. Năm thứ
4 niên hiệu Nguyên Hựu, Vua Triết Tông đời Tống, sư sanh
giờ Tỵ, mồng 10 tháng 11, bạch quang thấu qua phòng, cả ấp
đều cảm thấy kỳ lạ. Năm 16 tuổi sư xuất gia, 17 tuổi
xuống tóc, rất ham việc của Thiền Tông, xem khắp Ngữ lục
của chư Tổ. Đối với 5 phái của Thiền Tông sư cảm thấy
nghi ngờ: "Tại sao ban đầu chỉ có một tổ Đạt Ma mà nay
lại có nhiều môn phái như vậy?"
Sư
tánh tình phong lưu thanh nhàn, năm 19 tuổi du phương. Ban sơ
đến am Bùi Độ thuộc quận Thái Bình, trụ trì tiếp đãi
rất cung kính, nói: Hôm qua mơ thấy thần già lam bảo ngày
mai có thiền sư Vân Phong Doạt đến, nên tiếp đãi tử tế.
Khi
ấy có một tôn túc nghe rồi đem ngữ lục của Doạt cho sư.
Sư vừa xem qua liền tự tụng được, vì thế người ta cho
là hậu thân của Vân Phong.
Kế
đó, sư đi yết kiến Tuyên Châu Trình thiền sư thỉnh ích
về bài tụng của Tuyết Đậu. Trình chẳng nói một lời
để sư tự kiến tự thuyết. Sư ngay đó thấu đạt ý chỉ.
Trình than rằng: "Cảo ắt là người tái lai".
Rồi
sư qua Đại Dương gặp thủ tọa Nguyên, hòa thượng Di ở
Động Sơn và thủ tọa Kiên. Sư qua lại với thiền hội ba
ông này rất lâu, biết hết tông chỉ của Tào Động. Nhưng
thấy họ đang khi truyền thọ nhau phải dùng hương đốt trên
cánh tay để biểu thị sự phó pháp chẳng vọng, trong bụng
nghĩ thầm rằng: “Thiền mà có truyền thọ như thế đâu
phải là cái pháp tự chứng tự ngộ của chư Phật chư Tổ",
rồi bỏ đi tham vấn các nơi.
Khi
đến chỗ Sơ hòa thượng chùa Phụng Thánh, gặp nhầm Sơ
đang thượng đường, Sư ra hỏi: Theo lời hòa thượng nói
“Kim Liên từ dưới đất nổi lên, Bảo Cái từ trên trời
thòng xuống”, ấy là diệu dụng của thần thông hay là pháp
tự vốn như thế?
Sơ
đáp: Kim Liên từ dưới đất nổi lên, Bảo Cái từ trên
trời thòng xuống.
Sư
nói: Loan phụng chẳng đậu cây gai góc, chim yến còn luyến
ở thời xưa.
Sơ
nói: Ba năm chẳng gặp nhau bèn có đủ thứ việc.
Sư
nói: Chỉ như tăng vừa nói “Ngày xưa Thế Tôn, hôm nay hòa
thượng" lại là thế nào?
Sơ
liền hét.
Sư
nói: Một tiếng hét này chưa có chủ.
Sơ
quay đầu lấy cây gậy hợi chậm.
Sư
nói: Linh cơ như điện chớp đâu nhọc để suy tư.
Rồi
vỗ tay một cái, trở về chúng.
Sau
đó đi tham bái Tâm Ấn Thuần Công, Thuần chỉ Sư đến Bảo
Phong y chỉ Trạm Đường Chuẩn Công. Lúc Sư mới đến, tỏ
ra cơ biện tung hoành.
Một
hôm Trạm Đường hỏi: Lỗ mũi ngươi hôm nay vì sao mất hết
nửa bên?
Sư
đáp: Dưới cửa Bảo Phong.
Trạm
Đường nói: Kẻ thiền bày đặt.
Một
ngày kia ở chỗ tượng Thập Vương, Trạm Đường chỉ tượng
hỏi: Ông quan này họ gì?
Sư
đáp: Họ Lương (Trạm Đường họ Lương).
Trạm
Đường dùng tay tự vò đầu nói: Chỉ tiếc họ Lương này
thiếu cái nón.
Đáp:
Dù không có nón, lỗ mũi giống hệt.
Trạm
Đường nói: Kẻ thiền bày đặt.
Sư
đang xem kinh, Trạm Đường hỏi: Xem kinh gì?
Đáp:
Kinh Kim Cang.
Đường
nói: Pháp ấy bình đẳng chẳng có cao thấp, tại sao núi Vân
Cơ thì cao, núi Bảo Phong thì thấp?
Sư
đáp: Pháp ấy bình đẳng chẳng có cao thấp.
Đường
nói: Người làm được một đày tớ của tọa chủ (tọa
chủ là pháp sư giảng kinh thuộc giáo môn).
Một
hôm sư đang đứng hầu, Trạm Đường nhìn thấy móng tay của
Sư dài quá nên nói: Những miếng tre chùi đít trong nhà cầu
chắc không phải ông rửa đâu?
Sau
khi nghe lời dạy của Trạm Đường, Sư suốt đời không để
móng tay nửa. Vừa mới dài ra một chút mà không cắt thì
thấy hòa thượng Trạm Đường xuất hiện ngay trên đầu
ngón tay.
Một
hôm Trạm Đường hỏi: Thượng tọa Cảo! Thiền ta ở đây
ngươi đều hiểu được, bảo ngươi nói cũng nói được,
bảo ngươi làm bài tụng hoặc tiểu tham, phổ thuyết ngươi
cũng làm được, chỉ có một việc còn chưa được, ngươi
biết chăng?
Sư
hỏi: Việc gì?
Đường
nói: Ngươi chỉ thiếu một tiếng “ồ”. Nếu ngươi chẳng
được tiếng “ồ” này, khi nói chuyện trong phòng ta thì
có thiền, khi ra khỏi thì hết, khi thức tỉnh thì có thiền,
vừa mới ngủ liền hết. Nếu như thế làm sao địch với
sanh tử được?
Sư
nói: Chỗ này chính là chỗ nghi của ông ta đây.
Khi
Trạm Đường sắp tịch, Sư hỏi: Sau khi hòa thượng tịch,
ông ta phải y chỉ ai mới có thể liễu được việc lớn
này?
Đường
nói: Có ông Khắc Cần. Ta dù không biết ông ấy nhưng ngươi
ắt phải y chỉ ông ấy mới có thể liễu được việc của
ngươi.
Sau
khi Trạm Đường tịch, Sư đến Kinh Nam yết kiến Trương
Vô Tận (người đã kiến tánh), xin bài Tháp Minh (bài tán
dương ghi ở tháp).
Trương
hỏi: Ông chỉ mang đôi dép cỏ từ xa đến như thế này?
Sư
nói: Ông ta hành cước từ mấy ngàn dặm đến gặp Tướng
công.
Trương
hỏi: Ông bao nhiêu tuổi?
Đáp:
Hai mươi tám.
Trương
lại hỏi: Con trâu bao nhiêu tuổi?
Sư
đáp: Hai cái!
Trương
lại hỏi nửa: Từ đâu học được cái giả dối này?
Sư
đáp: Hôm nay thân gặp Tướng công.
Trương
cười nói: Hãy ngồi uống trà.
Vừa
ngồi xuống, Trương hỏi: Từ xa đến có việc gì?
Sư
đến gần nói: Hòa thượng Trạm Đường thị tịch. Sau khi
hỏa táng, con mắt răng và hột chuỗi chẳng hoại, xá lợi
vô số. Xin đại thủ bút làm bài Minh để khích lệ kẻ hậu
học.
Trương
nói: Có lời hỏi ông, nếu đáp được thì làm bài Minh ghi
tháp.
Sư
nói: Xin Tướng công hỏi?
Trương
nói: Nghe nói con mắt Trạm Đường chẳng hoại phải chăng?
Đáp:
Phải.
Trương
nói: Ta chẳng hỏi con mắt này.
Sư
nói: Tướng công hỏi con mắt gì?
Trương
nói: Con mắt kim cương.
Sư
nói: Nếu nói con mắt kim cương tức là ở trên đầu bút
của Tướng công.