SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
CHƯƠNG VI
Trường Phái Trung Quán
Thánh giả
Long Thọ, người tiên phong của trường phái Trung Quán, trong “Nhập Trung
Quán Luận” và những công trình luận giải khác đã biện giải rằng ý nghĩa
đích thực những lời dạy của Ðức Bổn sư về tánh Không, Chân đế là khi ta
phân tích tra vấn đến tận cùng mọi vật có vẽ như có thật, ta không hề tìm
thấy chúng. Thế nên, không có gì được gọi là hiện hữu một cách chân thật
hay tuyệt đối. Jamyang đã đưa ra một định nghĩa tổng quát về trường phái
Trung Quán như sau :
Một người theo Trung Quán là người hoàn toàn phủ
nhận biên kiến chấp thường, tức là chấp mọi hiện tượng giới hiện hữu một
cách rốt ráo, cũng như hoàn toàn phủ nhận biên kiến chấp đoạn, tức là chấp
rằng mọi hiện tượng giới đã không hiện hữu một các công ước. (1)
Biên kiến
chấp thường là thái độ cụ thể hoá hiện tượng giới, gán cho chúng một cách
thế hiện hữu mà chúng không hề có. Biên kiến chấp đoạn là thái độ phản bác
hiện tượng giới bằng cách phủ nhận một hình thái hiện hữu đã có mặt.
Trong thực
tế, mọi thuyết phái Phật giáo đều tuyên bố là mình đi theo con đường trung
đạo, ở giữa hai biên kiến chấp thường và chấp đoạn, và mỗi trường phái đều
xem các trường phái khác hoặc ngoại đạo là rơi vào biên kiến. Tuy nhiên
nhìn một cách bao quát, nếu như ta bước dần lên những bậc thang thuyết
phái theo quan điểm của Hoàng Mạo phái, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả
những gì mà các thuyết phái phủ nhận -chống lại biên kiến chấp thường-
ngày càng một nhiều hơn, trong khi đó tất cả những gì mà các thuyết phái
khẳng định -chống lại biên kiến chấp đoạn- ngày càng ít hơn.
Phân Biệt
Thuyết đã bác bỏ biên kiến chấp thường bằng cách khẳng định rằng tất cả
các pháp hữu vi đều tan rã hoại diệt trong từng sát na, đồng thời bác bỏ
biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi sựï vật là những hiện
thể (substantial established, rdzas grub, dravya-siddha). Phân Biệt Thuyết
là trường phái duy nhất phân biệt giữa hiện thể và sự hữu (substantial
existence, rdzas yod, dravya-sat). Chỉ có những Chân đế (ví dụ như các hạt
bất khả phân hoặc các sát na bất khả phân của ý thức) mới được coi như là
những sự hữu, còn tất cả hiện tượng giới đều là những hiện thể, có nghĩa
rằng chúng sở hữu những thực chất của riêng chúng. Phân Biệt Thuyết mạnh
mẽ khẳng định rằng tất cả mọi vật phải sở hữu “thực chất” riêng để có thể
hiện hữu như là nó được hiện bày.
Phái Luận
Lý của Kinh Lượng Bộ đã đi một bước tách rời khỏi khái niệm về thực tính
này (biên kiến chấp thường) bằng cách cho rằng một vài hữu thể (cụ thể
như hiện tượng giới thường hằng, con người) đều chỉ là những hiện hữu giả
lập (btags yod, prajnapti-sat). Ðiều này có nghĩa là những sự vật có thể
hiện hữu mà không cần phải có thực chất riêng, không cần phải là những tự
thể hoàn toàn độc lập. Con người chẳng hạn, chỉ là những gán đặt do những
ý niệm nắm bắt các sắc uẩn về tâm-vật lý. Ðồng thời, Kinh Lượng Bộ cũng
bác bỏ quan điểm biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi hiện
tượng giới được thiết định bởi những phẩm tánh riêng của chúng như là
những giả danh, ngôn thuyết và thuần tuý khái niệm.
Những
người theo Duy Thức bác bỏ biên kiến chấp thường bằng cách phủ nhận một
phần nội dung mà Kinh Lượng Bộ xác quyết -sự hiện hữu của hiện tượng giới
bởi những phẩm tánh của chúng như là những giảdanh và thuần tuý khái niệm.
Họ cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn vốn cho rằng mọi Chân đế đều được thiết
định một cách rốt ráo, và hiện hữu do tự tánh của chúng, trong khi đó
những Tục đế được gọi là thường hằng cũng chỉ là “thực hữu” ở một mức độ
nào đó bởi vì chúng thực ra là sản phẩm cấu thành bởi nhân duyên.
Và cuối
cùng, trường phái Trung Quán Tông vốn xem các thuyết phái thấp hơn là rơi
vào con đường biên kiến chấp thường, đã bác bỏ thái độ biên kiến này bằng
cách khẳng định rằng chẳng có gì được gọi là hiện hữu một cách chân thực
hay rốt ráo. Trung Quán Tông cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn bằng cách
khẳng định mọi hiện tượng giới chỉ hiện hữu một cách công ước. Một khi mà
tất cả mọi sự vật hiện hữu chỉ hiện hữu một cách công ước, không có cái gì
hiện hữu một cách rốt ráo, thì vấn đề quan trọng đặt ra là, (i) ta không
nên mơ hồ giữa hiện hữu rốt ráo và Chân đế, và (ii) ta cũng không nên mơ
hồ giữa hiện hữu thông tục và Tục đế hay phúc đế. Nên nhớ rằng tất cả tứ
đại thuyết phái đều coi Nhị Ðế là những đối thể của tri lượng, nghĩa là
chúng hiện hữu. Chỉ khác một điều là đối với Trung Quán Tông, Nhị Ðế chỉ
hiện hữu một cách thông tục, không phải hiện hữu một cách rốt ráo.
Một điểm
nữa, bởi vì tánh Không (Chân đế) là phẩm tánh vốn không có sự hiện hữu rốt
ráo, thế nên một nhận thức đúng đắn về Chân đế sẽ đưa ta đến nhận thức làm
thế nào để phủ nhận loại hiện hữu được cường điệu (hiện hữu rốt ráo) mà do
vô minh chúng ta đã nhìn thế giới này như thế. Cũng tương tự như vậy,
hiểu biết về phúc đế cũng có nghĩa sẽ đưa ta đến sự hiểu biết bằng cách
nào mà con người, những hành động và hậu quả của chúng, cũng như các sắc
thái muôn màu của hiện tượng giới thông tục đã hiện hữu một cách công ước
như thế. Thế cho nên, Nhị Ðế được vận dụng như là một khung sườn để qua đó
có thể lý giải được cách thế mà sự vật đã hiện hữu một cách không chân
thực và rốt ráo.
CHÚ THÍCH
(1) Great
Exposition of Tenets, trích dẫn và dịch bởi Hopkins trong “Meditation on
Emptiness”. London: Widom, 1983. 451.
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---