SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
CHƯƠNG IV
Những Trường Phái Ðại Thừa
Ngài A Ðề
Sa trong một tác phẩm quan trọng, “Bồ Ðề Ðạo Ðăng”, đã phân loại người đời
ra ba hạng có căn cơ khác nhau. Hạng hạ sĩ chỉ biết suy nghĩ đến những
phúc lợi tạm thời, những an vui, dục lạc trong cuộc sống luân hồi sinh tử.
Họ bám chặt với đời sống thế gian và không muốn từ bỏ nó. Ðối với hạng
người này,ï phần đông chỉ biết đi tìm kiếm những dục lạc trong cuộc sống
thế tục hoặc nếu có theo tôn giáo thì cũng chỉ hời hợt bên ngoài; thản
hoặc có một số khác gồm những người biết quan tâm đến chuyện tu hành thì
cũng chỉ ở mức độ thấp nhất tức là chỉ tu phước, tu chỉ để mong cầu được
tái sanh vào một kiếp sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Hạng hạ sĩ vì thế
chưa có khả năng bước chân vào lộ trình giải thoát. Ngược lại, hạng trung
sĩ chỉ tìm kiếm giải thoát cho riêng cá nhân mình ra khỏi vòng luân hồi
sinh tử, lòng chăm chăm hướng đến niết bàn. Tuy nhiên họ đang đi trên con
đường Tiểu thừa bởi vì chỉ quan tâm đến phúc lợi của riêng mình mà không
chia sẻ gánh nặng cứu vớt chúng sanh. Trong khi đó hạng thượng sĩ với tâm
nguyện vị tha rộng lớn, họ chỉ luôn nghĩ đến việc mang lại hạnh phúc cho
muôn loài. Khi họ nhận ra khả năng có thể đạt đến giác ngộ, và biết được
rằng những năng lực của một vị Phật có thể giúp đỡ tha nhân một cách hữu
hiệu hơn, trong ý nguyện độ sanh cao cả, họ quyết định lựa chọn con đường
tinh tấn tu tập cho đến bao giờ có thể đạt thành Phật quả. Lòng quyết tâm
này là một hạnh nguyện Bồ tát và những ai mang những hạnh nguyện này vào
đời, đang bước đi trên con đường của Ðại thừa.
Như vậy sự
khác nhau giữa Tiểu thừa / Ðại thừa là sự khác nhau giữa hai lộ trình tu
chứng. Ðường tu của Tiểu thừa được thúc đẩy bởi ý nguyện vượt thoát vòng
luân hồi sinh tử và đạt đến đạo quả an tịnh giải thoát. Con đường của Ðại
thừa được thúc đẩy bởi tâm từ bi rộng lớn thương xót toàn thể chúng sanh
nhằm đạt đến quả vị viên mãn, cực lạc, nhất thiết trí của một vị Phật. Tuy
nhiên một điểm khác cũng cần được lưu ý là ngay từ phần đầu của cuốn sách
này ta cũng đã từng đề cập đến sự khác nhau giữa hai thuyết phái Tiểu thừa
và Ðại thừa. Thế nên chúng ta không nên lẫn lộn giữa hai sự khác biệt
này. Một cách ngắn gọn, lộ trình tu chứng của Tiểu thừa và Ðại thừa được
phân biệt trên căn bản động cơ và ý nguyện tu tập; trong khi đó hai thuyết
phái Tiểu thừa và Ðại thừa không phải khác nhau do động cơ thúc đẩy mà là
trên quan điểm về vô ngã, hay không tánh.
Không
giống như những thuyết phái Tiểu thừa chỉ giảng dạy về vô ngã của con
người, thuyết phái Ðại thừa giảng dạy rằng bản tánh rốt ráo của thực tại,
thể vi tế và quan trọng nhất của vô ngã là vô ngã, hay tánh Không, và đó
là bản tánh rốt ráo của mọi hiện tượng giới. Họ khẳng định rằng Bồ tát do
hạnh nguyện vị tha cao cả thúc đẩy, đã thiền quán sâu xa trên tánh Không
của toàn thể pháp giới, và như thế đã chuẩn bị để bước vào tình trạng nhất
thiết trí của Phật quả. Một vài thuyết phái Ðại thừa cho rằng những hành
giả của phái Tiểu thừa đã không hề nhận chân được tánh Không của pháp giới
và do đó không thể nào vượt qua khỏi những chướng ngại nhằm đạt đến nhất
thiết trí. Tuy nhiên, thuyết phái cao nhất, Quy Mậu Biện Chứng phái của
Trung Quán Tông, nhìn nhận rằng các hành giả của Tiểu thừa thực chứng được
tánh Không, tuy nhiên lộ trình tu chứng này không thể đưa họ đến tình
trạng nhất thiết trí bởi vì trí tuệ của họ không được trang bị bởi tấm
lòng vị tha cao cả cũng như đã không được thúc đẩy bởi những hạnh nguyện
ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v...
NHỊ ÐẾ NHƯ LÀ MỘT NHẤT THỂ
Những thuyết phái Ðại thừa
đưa ra kết luận rằng cái tánh Không vi tế và sâu sắc thực chứng được trên
con đường Bồ tát đạo là một Chân đế. Chân đế này là một hiện tượng giới
khiển trừ, và hoàn toàn vô ngã (tức là không xuất hiện như một loại hữu
thể nào đó). Tuy nhiên những trường phái Ðại thừa đã bất đồng quan điểm về
loại hữu thể mà tánh Không phủ định. Cụ thể như trường phái Duy Thức cho
rằng tánh Không là không có sự khác nhau giữa đối thể và chủ thể nhận thức
(tâm) đang nắm bắt nó, của một thực thể; trong khi đó Quy Mậu Biện Chứng
phái của Trung Quán Tông quan niệm rằng tánh Không là không có hiện hữu tự
thân. Tuy nhiên cho dù định nghĩa tánh Không như thế nào đi nữa, các
thuyết phái Ðại thừa đều đồng ý rằng cái tánh Không rất vi tế này trước
tiên là một Chân đế, và là một phẩm tánh hiện hữu trong toàn thể mọi pháp
giới. Ðiều này có nghĩa là, bất cứ cái gì hiện hữu -kể cả tánh Không- đều
trống rỗng về bất cứ loại hữu thể nào mà tánh Không phủ định.
Những tục
đế bao gồm mọi pháp giới ngoại trừ tánh Không, như cái bàn, cái ghế,
v.v... Tất cả những hiện tượng giới này đều rỗng không. Chúng tự nó không
phải là những tánh Không, tuy nhiên chúng rỗng không bởi vì chúng thiếu
một cách thế hiện hữu nào đó. Khi Tục đế mang phẩm tính rỗng không cũng
như khi tánh Không là một Chân đế, ta đi đến một kết luận rằng Chân đế và
Tục đế là những hiện tượng giới khác nhau, nhưng hổ tương khiển trừ, và
bao dung lẫn nhau như là một thực thể đơn thuần bất khả phân. Kinh Giải
Thâm Mật (Unravelling the Thought) đã so sánh mối liên hệ giữa Nhị đế với
mối liên hệ giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tiêu và tánh cay của
nó, bông gòn và tánh xốp của nó và những cặp tương tự. Trong mối liên hệ
giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tánh trắng không phải là vỏ sò,
cũng như vỏ sò không phải là tánh trắng; thế nhưng cái vỏ sò trắng là luôn
luôn trắng (1). Tương tự như thế, Hoàng Mạo phái biện giải rằng không hề
có chuyện nghịch lý khi Nhị Ðế có thể hổ tương giao tiếp toàn diện ở trong
cùng một cá thể đơn thuần. Cũng giống như tánh trắng và cái vỏ sò trắng,
chúng là đặc tánh và đặc tánh sở đắc. Tánh Không là phẩm tánh cao nhất, là
bản tánh rốt ráo của toàn thể pháp giới.
CHÚ THÍCH
(1) Kinh Giải Thâm Mật
- Sutra Unravelling the Thought (Samdhinirmocana-sutra). P774. Vol. 29.
Bản dịch của John Powers (Wisdom of Buddha). Dharma Publishing, 1995.
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---