SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
CHƯƠNG II
Trường Phái Phân Biệt Thuyết (Ðại
Tỳ Bà Sa)
Phân
Biệt Thuyết hay “Ðại Tỳ Bà Sa” là tên gọi một cách tổng quát của tất cả
mười tám bộ phái xuất hiện vài thế kỷ sau khi Ðức Phật nhập diệt. Căn cứ
vào số lượng phân phái xảy ra, thời gian chúng xuất hiện và những tên gọi
của mười tám bộ phái này mà người ta thấy có rất nhiều truyền thống khác
nhau. Danh hiệu “Ðại Tỳ Bà Sa” (Mahavibhasa) có vẻ như được dùng để nêu rõ
rằng những bộ phái này đều chia xẻ quan điểm chính của Ðại Tì Bà Sa Luận,
một tổng yếu của những giáo lý được kết tập trong bộ A Tì Ðạt Ma
(Abhidharma: Tối thắng pháp), mà chỉ có những bộ phái của Phân Biệt
Thuyết là khẳng định rằng đã được thuyết giảng bởi chính Ðức Bổn sư. Tuy
nhiên trong thực tế không hẵn là toàn thể những tông phái này đều dựa vào
Ðại Tỳ Bà Sa, chẳng qua chỉ là cách gọi tên một cách dễ dãi các tông phái
đã thiết đặt những lý thuyết của mình chung quanh bộ luận này. Bộ Ðại Tỳ
Bà Sa Luận đã không được dịch qua tiếng Tây Tạng cho đến giữa thế kỷ thứ
hai mươi, và bởi vậy chưa tạo được một tác động đáng kể nào đối với sự
nghiên cứu học hỏi của Phật giáo Tây Tạng liên quan đến trường phái Phân
Biệt Thuyết. Thay vào đó, những kiến giải của Phật giáo Tây Tạng về trường
phái Phân Biệt Thuyết được đặt căn bản trên cuốn “Bảo Tàng Tri Kiến” của
Ngài Thế Thân (Vasubandhu). Các truyền thống Tây tạng cho rằng Ngài Thế
Thân ban đầu xuất gia theo trường phái Phân Biệt Thuyết, sau đó trở thành
một hành giả của phái Kinh Thủ của Kinh Lượng Bộ và cuối cùng đã bỏ theo
phái Duy Thức. Nội dung cơ bản của tác phẩm “Bảo Tàng Tri Kiến” đã đặt nền
tảng giáo lý căn bản cho Phái Phân Biệt Thuyết trong khi đó những chú giải
của Ngài đã phản ánh những giáo lý của bộ phái Kinh Thủ - Kinh Lượng Bộ.
TỤC ÐẾ
Ðịnh nghĩa về Nhị Ðế theo
trường phái Phân Biệt Thuyết có thể được rút ra từ đoạn kệ sau đây của
Ngài Thế Thân trong tác phẩm “Bảo Tàng Tri Kiến”:
Một sự vật sau khi bị hủy hoại hay được tách rời
những đặc tánh của chúng ra, khiến tri thức của ta không còn nhận ra chúng
thì sự vật đó được coi là thuộc về Tục đế, chẳng hạn như một cái bình, hay
là nước.
Ngược lại là những sự vật thuộc về Chân đế.
Từ ý
nghĩa này, Tục đế có thể được định nghĩa như sau :
Ðó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy
hoại về mặt vật chất hay tách rời các đặc tánh của chúng ra, những nhận
thức về chúng không còn hiện hữu nữa.
Ðể ý rằng
qua cách định nghĩa tục đế, với sự hủy hoại về mặt vật chất của sự vật tác
động đến nhận thức, đãbao hàm ý tưởng xem Nhị đế là những bộ phận của đối
thể nhận thức. Mặc dù Nhị đế là những đối thể (không phải là những phối
cảnh chủ quan), định nghĩa này cũng đã chỉ rõ cho ta thấy mối quan hệ mật
thiết giữa tâm thức (nhận thức) và đối thể và đây là một chủ đề ngày càng
chiếm một tầm mức quan trọng trong những thuyết phái cao hơn.
Ngài Thế
Thân đã đưa ra thí dụ về cái bình, một vật thể có thể bị đập vỡ ra thành
từng mảnh nhỏ và như vậy loại trừ sự nhận thức của tâm ta về cái bình khi
nó bị hủy hoại. Xâu chuổi hột là một thí dụ khác. Khi ta nhìn một xâu
chuổi, ý thức của ta nhận biết đó là xâu chuổi. Thế nhưng, khi ta cắt đứt
sợi dây nối liền chúng, nhận thức về xâu chuổi bị xóa bỏ ngay và thay vào
đó bằng nhận thức về những hạt chuổi. Chúng ta đã từng xem qua những phim
ảnh diễn tả cảnh phá hủy những tòa nhà chọc trời trong một vài giây đồng
hồ bằng chất nổ được gài đặt có tính toán chiến lược. Mới giây phút trước,
đây là một toà cao ốc văn phòng bề thế có vẻ như rất thật, rất vững chãi.
Chỉ trong một giây phút sau, những gì còn lại là một khoảng không và một
đống gạch vụn. Khi toà cao ốc bị phá hủy, đống gạch vụn không phải là tòa
cao ốc; cũng vậy, khi một cái bình bị đập vỡ, những mảnh vỡ không phải là
cái bình, và một xâu chuổi chưa hoàn tất, những hạt chuổi không phải là
xâu chuổi. Như thế, nhận thức của ta nắm bắt về cái bình, xâu chuổi hay
toà cao ốc đã bị loại trừ khi những đối thể này bị hủy hoại.
Ngài Thế Thân cũng đưa ra
một thí dụ về “nước”, cho thấy một sự vật mà nhận thức nắm bắt của ta về
nó đã bị loại trừ không phải do sự hủy hoại vật chất nhưng là do sự tách
rời đặc tánh của chúng thành các hiện tượng giới khác. (“Nước” ở đây nên
được hiểu như là một khối lượng nước tổng quát có thể được chứa trong một
cái bình chẳng hạn; không nên xem như là một “vật thể phân tử ” được đề
cập đến trong phần Chân đế sau này). Do mặt hạn chế của thời đại về phương
diện kỹ thuật, các môn đồ của trường phái Phân Biệt Thuyết đã không hình
dung ra bằng cách nào có thể cắt một khối nước thành ra một vật khác mà
người ta không còn nhận ra chúng như là nước (như phương pháp điện giải,
hay thổi nước thành sương, v.v... sau này). Khi ta rót một phần nước ra từ
một cái bình, nhìn vào bình chúng ta vẫn nhận ra đó là nước. Tuy nhiên,
người ta có thể phân biệt được các đặc tánh của nước như mùi, vị, xúc - và
những phẩm chất này tự nó không phải là nước. Nước như vậy được nhận biết
tùy thuộc vào sự tổng hợp của tất cả những phẩm chất này lại với nhau; khi
những đặc tánh này bị tách rời ra, ý thức nắm bắt về nước bị loại trừ.
Tục đế
được phân ra làm hai loại: Hình tướng và tổng hợp. Cái bình là một thí dụ
về loại hình tướng và nước là một thí dụ về loại tổng hợp. Thật ra, bất cứ
cái gì là tục đế cũng đồng thời phải là một tổng hợp. Có những tục đế -như
cái bình chẳng hạn- xuất hiện dưới dạng một hình tướng trong khi có những
thứ khác -như khối nước- lại không mang hình tướng. Khi một tục đế xuất
hiện dưới một loại hình tướng nào đó để được nhận biết thì tâm thức nhận
biết sẽ bị loại trừ khi nó bị hủy hoại về mặt vật chất. Như thế, khi ta
đập vở cái bình bằng chiếc búa, chúng ta loại bỏ cái hình tướng mà cái
bình đã phải nương tựa vào để được nhận biết. Ngược lại, khi một Tục đế
không cần phải nương tựa vào sự hiện hữu của bất cứ một hình tướng nào, ý
thức nắm bắt về nó sẽ không bị loại trừ khi nó bị hủy hoại. Trong những
trường hợp như thế, người ta chỉ còn áp dụng phương cách tách rời từng
phần đặc tánh của nó.
Ðể hiểu
tại sao những sự vật như cái bình chẳng hạn lại được gọi là “tục đế” (kun
rdzob bden pa -samvrti-satya), trước tiên ta cần nên lưu ý rằng danh từ
“kun rdzob” của Tây Tạng có ba ý nghĩa khác nhau :
1. phủ
che sự nhận thức về thật tướng,
2. duyên
sanh; và
3. sử
dụng ước lệ bởi thông tục.
Khi từ
“kun rdzob bden pa” được dịch thành “tục đế” nó bao hàm ý nghĩa thứ ba ở
trên. Tuy nhiên một học giả tên tuổi của Mông Cổ, Ngawang Palden, đã cho
rằng ý nghĩa thứ hai của “kun rdzob” là tương xứng nhất đối với trường
phái Phân Biệt Thuyết. Cái bình là một “duyên sanh đế” bởi vì khi những
hình thể khác nhau của nó -mặt cong của thân bình, mặt bằng của đáy bình,
v.v...- duyên hợp lại với nhau, cũng là khi câu nói “cái bình hiện hữu,”
trở nên sự thật. Thế nên, trong trường phái Phân Biệt Thuyết, từ “đế”
(bden pa, satya) trong “duyên sanh đế” mang ý nghĩa đơn giản như là sự
hiện hữu của một đối thể, hay là tính xác thực của lời tuyên bố rằng một
đối thể nào đó đang hiện hữu.
Tục đế, hiện hữu công ước
(kun rdzob tu yod, samvrti-sat), và hiện hữu giả lập (btags yod,
prajnapti-sat) đều có ý nghĩa tương đương trong Phân Biệt Thuyết.
CHÂN ÐẾ.
Chân đế có thể được định
nghĩa như sau:
Ðó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy
hoại về mặt vật chất hay tách rời những đặc tánh của chúng ra thành những
phần khác, những nhận thức về chúng không bị loại trừ.
Thí dụ về loại này có thể
kể đến như các hạt định hướng bất khả phân, một sát na tạm thời của ý
thức, và hư không giới. Ðể có thể hiểu được những thí dụ này, thiết tưởng
chúng ta cũng cần nên đi sâu hơn một chút vào lý thuyết của Phật giáo về
hạt.
Theo các
nhà Phân Biệt Thuyết, thể thô của thế giới vật chất bao gồm bởi những hạt
(hay phân tử, particles) cực kỳ vi tế không còn chiếm một thể tích không
gian nào. Những hạt này được gọi là định hướng bất khả phân bởi vì nó
không có mặt đông hay mặt tây, không có phía trên hay phía dưới, v.v...
Tuy nhiên, đây chỉ là những định hướng bất khả phân chứ không phải là hoàn
toàn bất khả phân, bởi vì những hạt này là một kết khối (conglomeration)
của vài “hạt vật chất” khác. Hiển nhiên ta không thể cho rằng những “hạt
vật chất” này là nhỏ hơn những “hạt kết khối,” bởi vì cả hai loại hạt
này đều không chiếm một khoảng không gian nào dù nhỏ nhất. Tuy nhiên, hạt
kết khối có thể hiện hữu riêng biệt, trong khi đó hạt vật chất luôn luôn
hiện hữu cùng với những vật thể phân tử của các loại khác như là những
phần tử của một hạt kết khối. Trong cảnh giới của chúng ta, cỏi Dục Giới,
mỗi hạt kết khối gồm ít nhất tám hạt vật chất kết hợp lại là đất, nước,
lửa, gió, sắc, hương, vị, xúc. Nếu hạt kết khối là một phần của cơ thể con
người, nó sẽ có thêm hạt vật chất thứ chín tức là thức giác. Nếu nó là một
phần của các cảm quan mắt, tai, mũi, lưỡi của con người, nó sẽ có thêm hạt
vật chất thứ mười tương ứng với các cơ quan đó. Nếu có sự hiện hữu của âm
thanh, hạt vật chất thứ mười một có mặt: thanh âm. Trong cỏi Sắc Giới
không có sự hiện hữu của những hạt vật chất phân tử hương và vị, thế nên
mỗi hạt kết khối có thể chỉ còn bao gồm sáu vật thể phân tử.
Các nhà
Phân Biện Thuyết đã bị thách đố trong việc giải thích làm thế nào để những
phân tử không có khoảng không lại có thể tụ đến cùng nhau để hình thành
một vật thể hiện hữu trong không gian này. Họ đã trả lời bằng cách giải
thích rằng trong khi từng cá thể của các hạt vật chất không mang các đặc
tính của “đề kháng” hoặc “tính chắn” để có thể giữ hai vật cùng ở chung
một chỗ thì các hạt kết khối định hướng bất khả phân mang tính “đề kháng”
này. Thế nên, hai hạt kết khối không thể tan vào nhau để chiếm cùng một vị
trí, ngược lại chúng có thể xáp vào nhau để tạo nên một thể vật chất ở
dạng thô thiển chiếm một thể tích trong không gian. Ðến đây thì có lẽ
người ta có thể ngạc nhiên tự hỏi là bằng cách nào mà tám hạt vật chất
thuộc loại “vô kháng” này có thể tổng hợp lại thành một kết khối “đề
kháng” được.
Một câu
hỏi khác cũng được đặt ra là: Các kết khối định hướng bất khả phân này có
tiếp xúc nhau hay không khi chúng tụ đến cùng nhau như là những khối cấu
trúc của một vật thể chiếm một vị trí trong không gian này? Một số môn đồ
của Phân Biệt Thuyết cho rằng chúng có khả năng đó. Thế nhưng thật khó để
giải thích là làm thế nào mà hai phân tử không có mặt trái hay mặt phải
lại có thể tiếp xúc, dính lại với nhau để tạo thành một vị thể trong không
gian thay vì xâm nhập vào nhau cùng một vị trí. Một bộ phái khác của Phân
Biệt Thuyết, phái Kashmiri, thì cho rằng các phân tử định hướng bất khả
phân không tiếp xúc với nhau mà được giữ dính lại với nhau bởi khoảng
không.
Cùng một
cách thế như vậy, những hành giả của trường phái Phân Biệt Thuyết cho rằng
giòng chảy liên tục của ý thức được cấu thành từ các phân tử tạm thời bất
khả phân hay là những sát na “phi thời” của ý thức.
Bởi vì
chúng (những phân tử này) không còn có thể phân ra được nữa -cho dù là
trong định vị không gian hay một cách tạm thời- những phân tử bất khả
phân và những sát na vi tế nhất của ý thức này không thể bị phân chia hay
kéo rời ra thành từng phần khác, do đó ý thức nắm bắt về chúng không thể
bị loại trừ, thế nên chúng được xem là những Chân đế. Hầu như các nhà học
giả đều đồng ý rằng theo Phân Biệt Thuyết, cả hai loại khối kết phân tử
định hướng bất khả phân và vật thể phân tử đều là những Chân đế. (Vấn đề
này lại làm nảy sinh ra nhiều câu hỏi khác, chẳng hạn như, Chúng ta không
thể nào tách rời đặc tánh của những vật thể khác nhau cấu thành một khối
kết phân tử định hướng bất khả phân? Tại sao điều này lại không thể loại
trừ ý thức nắm bắt một hạt kết khối?)
Một thí
dụ khác về Chân đế là hư không giới. Cần lưu ý rằng đây không phải là
khoảng không gian bỏ trống sau khi ta dời một vật đi nơi khác, hay là khi
ta đào một cái lỗ chẳng hạn, nó cũng không phải là khoảng không ở “ngoại
tầng không gian.” Hiểu theo ý nghĩa này, từ “khoảng không” liên hệ đến các
sự vật có tính vô thường cũng như tùy thuộc vào sự định vị của những đối
thể. Ngược lại hư không giới ở đây trải ra mọi hướng mà trong đó có thể
có sự hiện hữu của các đối thể vật chất hay không. Ðó là sự trùm khắp
không biến đổi của thế giới vật chất, không có gì ngăn ngại được. Ngawang
Palden cho rằng theo các nhà hành giả của Phân Biệt Thuyết và Kinh Lượng
Bộ thuyết phái, hư không giới là bất khả phân (1). Và như vậy, một điều
chắc chắn là ta không thể hủy hoại được nó về mặt vật chất. Cho dù ngay cả
chúng ta vạch ra những đường tưởng tượng chia cắt nó thành nhiều mảnh khác
nhau, những mảnh này cũng không gì khác hơn là hư không giới, thế nên ý
thức nắm bắt về nó không hề bị loại trừ.
Ngài Thế
Thân cũng cho rằng sắc pháp là một thí dụ của Chân đế. Trong cuốn Bảo Tàng
Tri Kiến, Ngài đã luận giải như sau: “Ngay cả khi sắc được phân ra thành
các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các
hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn
tồn tại.” (2) Nếu ta hủy diệt sắc trên bình diện vật lý biến nó trở thành
những vật thể khác thì kết cục những phần này tự nó cũng vẫn là sắc, và
như vậy ý thức nắm bắt về sắc vẫn không bị loại trừ. Ngay cả nếu ta có khả
năng cô lập từng đặc tánh cá biệt của sắc như mùi, vị, xúc, v.v..., ý thức
nắm bắt về sắc vẫn tồn tại, bởi vì mỗi một đặc tánh này lại là một sắc.
Như đã
trình bày ở trên, Nhị đế không được coi như là một chủ đề quan trọng hàng
đầu trong các tác phẩm của Phân Biệt Thuyết, thế nên đối với hầu hết các
hiện tượng giới, ta không tìm thấy một lời giải thích nào chỉ rõ rằng
chúng thuộc về Chân đế hay Tục đế. Tất cả những gì mà ta có được đều là
những nguyên tắc cơ bản. (3) Trên căn bản những hiểu biết cá nhân, tôi
muốn được nêu lên một vài điều về vấn đề bằng cách nào ta có thể đem áp
dụng những nguyên tắc này vào một vài trường hợp cá biệt. Trước hết, tôi
cho rằng mỗi một thành phần của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều
là một Chân đế. Thứ hai, bất cứ tập hợp nào của các uẩn hoặc giòng chảy
liên tục trong từng sát na của các uẩn đều là một duyên sanh đế, bởi vì
khi đặc tánh của nó bị phân ra thành các thành phần khác, nó không còn
được nhận biết như là một tập hợp hay mang tính liên tục. Cuối cùng, mặc
dù một “vật thể phân tử” bất khả phân là một Chân đế, một khối kết phân tử
định hướng bất khả phân chỉ có thể được coi như là một duyên sanh đế bởi
vì các đặc tánh của nó có thể được phân ra thành một tập hợp của các vật
thể phân tử cấu tạo khác biệt.
Theo
Ngawang Palden, danh từ “Chân” (don dam, paramartha) trong “Chân đế” liên
hệ đến cái gì không dính líu đến những sự chia cắt, còn từ “đế” bao hàm ý
nghĩa cái gì có thể nhận thức được thông qua luận lý, hay ngược lại. (4)
Ông nêu ra quan điểm rằng trên một ý nghĩa nào đó, ngay cả một vật thể
phân tử cũng là một duyên sanh bởi vì nó luôn luôn cộng sinh với tối thiểu
năm vật thể phân tử khác. Thế nhưng, nó vẫn là một Chân đế bởi vì tâm thức
nắm bắt nó không tùy thuộc vào các thực thể khác này. Các vật thể phân tử
khác không phải là những thành phần của nó và không được coi như ở trong
tập hợp của các vật thể phân tử khác mà nó cộng tồn. Ngược lại, nó hiện
hữu như là một thực thể. Một sự hữu (rdzas su yod, dravya-sat) cũng tương
đương với một Chân đế, đồng thời cũng tương đương với một hiện thể rốt ráo
(don dam du grub pa, paramartha siddha)
VÔ NGÃ
Tổng quát
mà nói, sự khác biệt giữa hai thuyết phái Ðại thừa (Duy Thức và Trung
Quán) và Tiểu thừa (Ðại Tỳ Bà Sa và Kinh Lượng Bộ) là ở điểm hai thuyết
phái cao hơn giảng dạy không tánh hay vô ngã của toàn thể pháp giới, trong
khi đó hai thuyết phái thấp hơn chỉ giảng dạy về vô ngã của con người. Mặc
dù hai thuyết phái Tiểu thừa cũng chấp nhận sự hiện hữu của Bồ tát đạo
(con đường dẫn đến Phật quả) của một vài trường hợp hiếm hoi cá biệt, đa
phần họ quan tâm đến việc tu chứng nhằm đạt đến đạo quả cuả một bậc A la
hán, giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, nghĩa là chưa hoàn toàn giác
ngộ như một vị Phật. Con người sở dĩ còn bị trói buộc trong vòng luân hồi
sinh tử là do một vài nhận thức lầm lạc về cái “Tôi” của mình. Ðể chấm
dứt, theo Phân Biệt Thuyết, không có một con đường nào khác hơn là phải
thực hành thiền quán về sự không hiện hữu của một cái ngã thường hằng, độc
lập, bất khả phân của con người. Mười ba trong số mười tám bộ phái của
Phân Biệt Thuyết cho rằng đây chỉ là cái ngã thô thiển, trong khi cái ngã
vi tế cần phải được thực chứng là cái ngã không thực hữu và không có tự
ngã.
Các
thuyết phái Ðại thừa giảng dạy về lý vô ngã của pháp giới bởi lẽ chỉ ở
giai đoạn cuối của hành trình tu tập, khi nào ta thực chứng được thật tánh
của toàn thể pháp giới lúc đó ta mới có thể đạt đến được tình trạng nhất
thiết trí của Phật quả. Nhất thiết trí ở đây được hiểu như là ý thức nhận
biết một cách trực tiếp và đồng thời toàn thể Chân đế cùng Tục đế. Chư Bồ
Tát vươn tới nhất thiết trí nhằm viên mãn hóa và gia tăng tối đa năng lực
cứu độ tha nhân. Trường phái Phân Biệt Thuyết không giảng dạy về loại nhất
thiết trí này, và có thể là do dựa vào những điểm này mà quan điểm của Ðại
Thừa cho rằng họ đã không trình bày một các hoàn chỉnh lý vô ngã của toàn
thể pháp giới. Tuy nhiên, Geshe Palden Dragpa đưa ra lập luận là vấn đề
“vô ngã của toàn thể pháp giới” có thể đã được trình bày một cách gián
tiếp trong những nghiên cứu chẳng hạn như làm thế nào mà một cái bình hay
một khối lượng nước được xem là hiện hữu ở một mức độ nào đó do chỉ được
nhận biết dựa vào hình dáng hay là những đặc tánh của chúng. (5)
Sự lý
giải về Nhị đế đã mang lại một thông điệp rằng chúng ta đã có một khynh
hướng thâm căn cố đế xem rằng cái ngã, cái thể xác của chúng ta như là một
khối toàn vẹn đối lập với những đối thể được nhận biết ở ngoài ta. Chúng
ta đã không quán chiếu được một sự thật rằng các hiện tượng giới đó chẳng
qua chỉ là giả lập của những tập hợp do các uẩn cấu thành. Do nhận thức
lầm lạc như vậy mà trong tâm của chúng ta vật thể đã hiện hữu như là những
thực thể vững chắc, kiên cố mà thực sự ra không phải như vậy. Với Phân
Biệt Thuyết, những Tục đế là đối tượng của sự tan rả, phân hủy thế nhưng
chúng ta đã coi chúng là thường hằng, bất biến một cách vô minh. Chúng ta
đã vọng tưởng xem chúng như là những thực thể độc lập, trong khi thực sự
ra chúng dựa vào các uẩn cấu thành chứ không phải là những hiện hữu tự
thân. Tất cả những kiến chấp sai lầm này đã dẫn ta đến các mối phiền não
chẳng hạn như dục vọng hay hận thù, và cũng chính những phiền não này lại
trở thành đầu mối thúc đẩy những hành động cuốn trôi ta vào vòng khổ đau
vô tận.
Nhà du
già nhận biết và chứng nghiệm được các vật thể phân tử vi tế nhất cũng như
các khoảnh khắc bất khả phân của ý thức. Theo Phân Biệt Thuyết, họ đã loại
bỏ được sự nhận thức vô minh về một cái ngã thường hằng, độc lập, bất khả
phân cũng như một cái ngã thực hữu và do đó đã thực chứng được Niết bàn,
tức là cảnh giới hoàn toàn tịch tĩnh. Bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận bao gồm vô số
những ý kiến trái ngược nhau liên quan đến mối liên hệ giữa Nhị Ðế và Tứ
diệu đế, tuy nhiên Hoàng mạo phái trong khi lý giải về Phân Biệt Thuyết đã
quyết định xếp loại Niết bàn như là một Chân đế. Ðiều này không phải vì
Niết bàn là mục tiêu tối hậu được đạt đến trên con đường tu tập mà một
cách đơn giản là nó đã thỏa mãn định nghĩa về Chân đế được nêu lên trước
đây. Một điều cần ghi nhận là trong sự phân biệt giữa Chân đế và Tục đế đã
bao hàm ý nghĩa Chân đế có vẻ như được chú trọng hơn, tuy nhiên không có
một thuyết phái nào trong tứ đại thuyết phái cho rằng “Chân đế” liên hệ
đến mục tiêu rốt ráo của hành trình tu tập.
CHÚ THÍCH.
(1)
Presentation of the Ultimate and the Conventional in the Four System of
Tenets, folio 13b.
(2) Thế
Thân: Abhidharmakosa and Bhasya, 91.20-92.
(3) Ðây
là những điều mà tôi được đọc về những lý giải của Ngawang Palden trong
tác phẩm Presentation of the Ultimate and the Conventional in the Four
System of Tenets, folio 6b-7a. Các độc giả khác có thể đọc Ngawang Palden
một cách khác hơn và một điều chắc chắn là những ý kiến của Ngawang Palden
không phải hoàn toàn được chia xẻ bới các tu viện Phật giáo Tây Tạng,
người đọc có thể phân tích những quan điểm này theo ý kiến của mình.
(4)
Presentation of the Ultimate and the Conventional in the Four System of
Tenets, folio 7a.
(5) Pháp
thoại của Geshe Palden Dragpa tại Ấn Ðộ, 1985. Quan điểm này cũng đã được
trình bày với các học giả làm việc chung với ông.
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---