SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
LỜI
NÓI ÐẦU
Nếu có người tìm đến bạn và ngỏ ý muốn tìm
hiểu về Phật Giáo, bạn sẽ nên bắt đầu như thế nào? Ta nên trình bày tỉ mỉ
với họ thế nào là ý nghĩa của quy y Tam Bảo? Hay là thuyết giảng cho họ
nghe về Tứ Diệu Ðế, bài pháp đầu tiên của Ðức Bổn Sư?
Joshua Cutler (Giám Ðốc Trung Tâm Nghiên
Cứu Phật Giáo Tây Tạng tại Washington, New Jersey) đã nêu lên câu hỏi này
với Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và được Ngài đề nghị rằng, đối với giới Tây phương
trong thời đại này, tốt hơn là ta nên bắt đầu với vấn đề Nhị Ðế: Tục Ðế
(Sự thực ước lệ) và Chân Ðế (Sự thực rốt ráo). Ngài quan niệm rằng để dẫn
dắt con người đến với Giáo Pháp tốt nhất là nên thông qua luận lý triết
học và phân tích bản chất của thực tại. Trên căn bản của lời khuyên này,
Joshua đã tổ chức một cuộc hội luận, mời gọi những bậc thức giả Tây Tạng
và phương Tây đến tham dự và trình bày những kiến giải liên quan đến vấn
đề Nhị Ðế theo truyền thống Phật giáo mà họ nắm vững nhất. Joshua đã gởi
đến tôi những cuốn băng này; Tôi đã chăm chú lắng nghe và đó là nguồn cảm
hứng để tôi viết lên bản sơ thảo đầu tiên của cuốn sách này dùng tại Trung
Tâm. Một số người nhận thấy giá trị của tập bản thảo và đề nghị tôi nên
xuất bản nó.
THẾ NÀO LÀ THỰC TẠI ?
Khi
Ðức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm,
Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của
chúng. Thế nhưng, thúc đẩy bởi mối quan tâm đến phúc lợi của toàn thể
chúng sanh, Ngài đã hành hoạt trong khuôn khổ của thế giới sắc tướng, ước
lệ, vận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ ước lệ để dẫn dắt chúng ta đi đúng
hướng. Triết lý Phật giáo có ý hướng làm sáng tỏ nội dung triết học và tri
thức của một vấn đề cốt tủy của Phật giáo, và cũng là vấn đề muôn thuở của
nhân loại: tính hai mặt của thế giới hiện tượng. Trong cái thế giới đa
dạng và phong phú này, ta đang sống với những hóa tướng và ước lệ, những
tập tục và truyền thống; tuy nhiên điều này không có nghĩa là không có sự
thôi thúc ta đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt
đối. Hẵn nhiên là chúng ta không thể tìm ra cái thực tại này ở bất cứ nơi
nào khác mà phải ngay chính từ những hóa tướng này. Những triết gia Phật
giáo gọi tính hai mặt này là Nhị Ðế: Tục đế và Chân đế. Mỗi trường phái
triết học Phật giáo đều đã cố gắng đưa ra những lý giải một cách chân xác
nhất theo đường hướng của mình về thế nào là Nhị Ðế và mối liên hệ giữa
chúng như thế nào. Ði vào việc khám phá những trường phái này, chúng ta
đang ghé mắt nhìn vào công việc của các nhà tư tưởng Phật giáo đang nắm
bắt một vấn đề cơ bản: Thực tại là gì?
Dĩ nhiên đây không phải là một câu hỏi vớ
vẩn mang tính trí thức mà là một vấn đề xuyên suốt tận cùng cốt tuỷ của
đời sống tu tập chúng ta. Nếu một sự phân tích thấu đáo về thực tại đưa
đến việc không có sự hiện hữu của thế giới vật chất, của bản ngã cá nhân,
thế thì chúng ta là ai đây? Và nếu như sự phân tích thực tại đưa đến việc
không có sự hiện hữu của một thiết định tuyệt đối về tiêu chuẩn đạo lý,
thì cái gì sẽ hướng dẫn ta trong cuộc sống chung với đồng loại? Trong hành
trình tu tập, đi xuyên qua giữa cái mớ bòng bong rối rắm này, một cái gì
đó chợt bùng vỡ, thế là ta được giải thoát và giác ngộ.
Thực tại là gì? Ðó là một câu hỏi đòi hỏi
những phân tích trí tuệ. Tu tập chuyển hoá con người một cách toàn diện,
kể cả mặt tinh thần. Ðối với một vài tông phái Phật Giáo Tây Tạng, kể cả
truyền thống Hoàng Mạo phái của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, tu tập bao gồm cả việc
trau dồi sắc bén trí óc, biến nó thành một lưỡi gươm của trí tuệ viên mãn.
Những tín đồ của truyền thống Hoàng Mạo phái khẳng định rằng trí huệ bát
nhã không bao giờ là việc rời bỏ vô minh, mê vọng để rơi vào một tình
trạng hư không, vô thức. Nếu giác ngộ được quan niệm một cách đơn giản như
là chấm dứt dòng suy tưởng nhận thức, thì một nhát búa đánh vào đầu chắc
chắn sẽ tạo ra trí tuệ bát nhã ngay lập tức! (1)
Thế thì thay vì chạy trốn khỏi sự rối rắm
của tư tưởng nhị nguyên, chúng ta phải đối đầu và tìm cách nhận ra sự vật
y như là chân tướng của chúng, vận dụng luận lý để phân tích sự mê chấp
của chính mình. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ được thật tướng của sự vật
chúng ta mới có thể bắt đầu thanh lọc trí tuệ bát nhã này để tiến đến tình
trạng thể nhập trực tiếp vào cảnh giới vô vi của niết bàn. Thế nên, theo
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và những người thuộc truyền thống Hoàng Mạo phái, vấn
đề nghiên cứu một cách nghiêm túc các trường phái triết học Phật giáo
không phải là chuyện sinh hoạt học thuật phụ thuộc bên cạnh hành trì tu
tập mà đó chính là sự tu tập, cơ bản và sống động nhất. Trong Kinh Lăng
Già Tâm Ấn, Phật dạy:
Giáo thuyết của ta có hai dạng:
Khuyến tấn và những học thuyết
Ðối với kẻ sơ cơ ta cho họ những lời
khuyên
Ðối với bậc du già sư, ta cho họ học
thuyết. (2)
NHỮNG THUYẾT PHÁI
Cấu trúc của tứ đại thuyết phái Phật giáo
được trình bày ở đây không đặt cơ sở trên sự phát triển theo tính niên đại
của các học thuyết này tại Ấn Ðộ, cũng như nếu ta liên hệ chúng với
truyền thống Phật giáo mang tính niên đại của Tây Tạng hay nhìn theo quan
điểm của ngành niên đại học Tây phương đương đại (3). Thế nên khi bạn bắt
đầu nghiên cứu triết học Phật giáo một cách có hệ thống, bắt đầu bằng tứ
đại thuyết phái này, bạn không dùng phương thức tiếp cận của khoa sử học.
Bởi lý do này, một số học giả đã lên tiếng chỉ trích việc sử dụng các học
thuyết này như là một chìa khóa nhận thức để hiểu biết về triết học Phật
giáo. Họ lập luận rằng việc làm này đã xóa nhoà đi những dị biệt giữa các
tổ sư Ấn Ðộ có thể đã sống xa cách nhau hàng trăm năm. Họ cũng cho rằng
những “thuyết phái” này đã xuất hiện một cách khúc chiết và mạch lạc qua
sự tưởng tượng phong phú của người Tây Tạng hơn là nội dung thực sự của
chúng được trình bày dưới thời của các vị Tổ Ấn Ðộ, nay đã bị họ xếp loại
một cách có ý đồ. Họ cũng đặc biệt quan tâm đến việc tránh đừng để cho
việc nghiên cứu các nguồn mạch chính thống cuả chúng ta liên quan đến
những kiến thức về triết học Phật giáo bị che mờ bởi các thuyết phái đã bị
sắp xếp.
Dĩ nhiên là tôi rất thiện cảm với những phê
phán này. Nghiên cứu về các thuyết phái sẽ không là mục tiêu tối hậu của
những khám phá về triết học; đây cũng không phải là cách thế lựa chọn tốt
nhất thay vì chúng ta có thể đọc thẳng các tác phẩm của các ngài Long Thọ,
hay Thế Thân chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng các nhà học giả Tây
phương cũng đã đi hơi quá xa khi phủ nhận các tư liệu của Phật giáo Tây
Tạng trình bày về các thuyết phái. Mặc dù nó không dính chặt với lịch sử
của những tư tưởng này, thế nhưng nó đã trình bày, cống hiến cho ta một
khung sườn để suy nghĩ về triết học Phật giáo. Ðánh giá thấp sự uyên bác
của một số người Tây Tạng trong những phân tích của họ về triết học Phật
giáo Ấn Ðộ, như Jamyang Shayba chẳng hạn, các nhà học giả đã phải bỏ công
ra cả hàng năm trời để đi đến những kết luận mà lẽ ra họ có thể đạt đến
chỉ trong khoảng vài tuần, vài ngày, thậm chí là vài tiếng đồng hồ.
Như vậy, trừ phi mối quan tâm của chúng ta
nghiêng về mặt học thuật, ta không thể nào đặt nặng đến khía cạnh lịch sử
của những tư tưởng cho đến khi nào ta có thể hiểu được những tư tưởng này
là gì. Thế nên tư liệu về các thuyết phái là nơi tốt nhất trang bị cho ta
hiểu biết, nhận thức. Và nếu chúng ta lưu ý rằng sự sắp xếp đặc biệt này
được hình thành tại Tây Tạng như là một cách thế để cấu trúc một cái nhìn
toàn diện mạch lạc, có thể dung hợp được tính cách đa dạng của triết học
Phật giáo Ấn Ðộ, chúng ta sẽ sử dụng nó một cách đúng đắn đầy lợi ích. Tôi
muốn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các nhà học giả Tây Tạng, những
người đã làm công việc này, từ vị trí cái nhìn của họ, không phải là không
cống hiến cho chúng ta nhiều phúc lợi.
Thế cho nên, một điều cũng rất rõ ràng
rằng, cuốn sách này không có mục đích trình bày một cái nhìn tổng quát về
triết học Phật giáo, càng không phải là một tổng quan về triết học Phật
giáo Tây Tạng. Cuốn sách này được viết cho những độc giả đã có một số hiểu
biết về Phật giáo và đặc biệt là đối với những ai đang thật tình quan tâm
đến việc tìm hiểu những khía cạnh triết học của Phật giáo Ấn Ðộ hay Tây
Tạng nhưng có thể đã bị bối rối trước những dịch phẩm của những tư liệu
mang nặng tính học thuật. Những điều mà tôi muốn trình bày trong tập sách
nhỏ này -những tư tưởng cốt tủy của tứ đại thuyết phái được lý giải dưới
cái nhìn của Hoàng Mạo phái- hy vọng có thể là một chiếc cầu hay ít ra là
một viên gạch lót đường để đưa đến một nhận thức rộng mở và một nghiên cứu
sâu sắc hơn.
ÐÔI HÀNG CẢM TẠ
Trong tập sách này, xin được chia xẻ những
điều mà tôi đã được học từ những vị tôn sư của Phật giáo Tây Tạng còn sống
hay đã qua đời, cũng như từ các đồng nghiệp và các bậc thầy của tôi. Một
số vị mà tôi nghĩ là có những đóng góp rất quan trọng cụ thể như Harvey
Aronson, Anne Klein, Elizabeth Napper, Joe Wilson, Don Lopez, Dan Cozort,
John Buescher, Kensur Yesche Tupden, và Geshe Palden Dragpa. Ðồng thời
cũng xin được gởi lời cảm tạ đến Susan Kyser (của Snow Lion) và Nathan
Lamphier về những góp ý đối với bản thảo. Cuốn sách này sẽ không được
hình thành nếu không có những nỗ lực của Jeffrey Hopkins, Joshua Cutler
(người thực hiện dự án), Sidney Piburn (người thúc đẩy tôi hoàn thành và
xuất bản tác phẩm này), cũng như của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma.
GHI CHÚ
Trong tập sách này, một số thuật ngữ Tây
Tạng và Sanskrit được chuyển qua dạng Anh ngữ được trình bày trong dấu
ngoặc đơn. Những chuyển ngữ này đặt căn bản trên hệ thống đã được Turrel
Wylie giới thiệu trong bài viết , “A standard System of Tibetan
Transcription” (Havard Journal of Asiatic Studies, 22, 1959, 261-276).
Ngoài ra, những danh từ riêng Tây Tạng đượcviết dưới dạng ngữ âm học
nguyên thuỷ, dĩ nhiên không hẵn là giúp người đọc phát âm một cách đúng
đắn mà chỉ có mục đích duy nhất là tạo một âm hưởng tương đối gần đúng với
tên gọi của Tây Tạng.
GUY
NEWLAND
LỜI NGƯỜI DỊCH
Là một Phật tử bình thường có thể chúng ta
không cần phải bận tâm đến việc thế giới này là có thực hay hư vọng, cũng
không cần phải biết đến Chân đế hay tục đế, hoặc bản tánh chân thực của
con người và vạn pháp là cái gì... Ðây là những vấn đề thuộc về triết học,
nghĩa là những vấn đề dễ làm cho ta nhức đầu, chưa kể một khi đi sâu vào
lãnh vực này, nhận chân được tánh Không là thực tướng của muôn vật, người
Phật tử sẽ không khỏi hoang mang tự đặt cho mình một câu hỏi: Nếu con
người chỉ là một giả lập của những sắc uẩn và tưởng uẩn thì những khổ đau
của con người cũng chỉ là những huyễn giả, tại sao chư Phật và chư Bồ Tát
lại phải thị hiện ra giữa cõi đời này, mà mục đích là để giúp đỡ cứu độ
cho muôn loài chúng sanh -vốn dĩ không có thật?
Nhưng thưa bạn, Ðạo Phật là đạo của GIÁC
NGỘ, trừ phi bạn chọn cho mình trở thành một người Phật tử bình thường để
có thể dễ dàng quay lưng lại với những vấn nạn nói trên và an vui -cũng
như đau khổ- với những dục lạc của cõi thế gian này thì không nói làm gì;
tuy nhiên nếu như bạn là một người thiết tha tìm cầu giải thoát và đang là
một hành giả cô đơn, nỗ lực tinh tấn trên hành trình vươn đến giác ngộ,
trong niềm tin tưởng vững chắc rằng mình có khả năng để vươn đến, thì bất
cứ bạn là ai, nếu muốn chạy thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của luân hồi
sinh tử, cũng đều phải vượt qua cửa ải của thực chứng tánh Không. Không
có một con đường nào khác. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư đại thánh Tăng, tổ sư
đều cũng phải đi qua con đường này. Từ đây, trên vách núi cheo leo của
Tánh Không, hành giả tha hồ nhảy múa mà không còn phải sợ hãi phải rơi
xuống vực thẳm của chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến. Và cũng từ đây, trên đỉnh
núi cao của tỉnh thức và trí tuệ, không còn mây mờ của vô minh che phủ,
hành giả có thể phóng tầm mắt nhìn rõ thực tướng của muôn loài, để sẽ
không còn như người mê ngủ hoang mang giưã hai bờ Chân đế và Tục đế, để
rồi suốt đời cứ phải loay hoay bỏ vọng tìm chân, làm nhọc lòng đến Tuệ
Trung Thượng Sĩ , một thiền gia xuất sắc đời Trần phải lên tiếng cảnh
cáo:
Người đời bỏ vọng để
cầu chân
Chân vọng tâm kia cũng
pháp trần
Hãy vượt cao lên bờ
bến ấy
Tham cùng đồng tử đối
tiền nhân
Nếu Phật đạo có đến tám vạn bốn ngàn pháp
môn thì con đường đi vào thực chứng tánh Không cũng có rất nhiều cánh cửa,
kể cả cánh cửa trực nghiệm bằng ý thức loại suy, thiền quán phân tích. Tốt
hơn hết là ta nên bắt đầu bằng Nhị Ðế. Khi đối đầu với vấn nạn triết lý
sắc tướng và thực tướng của vạn pháp, tức Nhị Ðế, những trường phái triết
học lớn của Phật giáo, được biết đến như Tứ đại thuyết phái: Ðại Tỳ Bà Sa,
Kinh Lượng Bộ, Duy Thức, và Trung Quán- đã đưa ra những lý giải khác
nhau. Trong những lý giải này, có những điểm người ta đã đồng ý với nhau,
nhưng cũng có những điểm đã gây nên những tranh cãi kịch liệt. Hoàng Mạo
phái của Phật Giáo Tây Tạng, một môn phái sở trường về thiền quán phân
tích do Ðại sư Tông Kha Ba sáng lập mà vị tổ sư thừa kế đương đại là Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn, đã duyệt qua tất cả những kiến giải của
tất cả những trường phái này và đưa ra những lý giải, phân tích rất xuất
sắc và có hệ thống. Những kiến giải này đã được Tiến sĩ Guy Newland,
đương kim Khoa trưởng Phân khoa Triết học và Tôn giáo Ðại học Công lập
Central Michigan, bang Michigan, tóm tắt lại trong tác phẩm “SẮC
TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG,Vấn Ðề Nhị Ðế Trong Tứ
Ðại Thuyết Phái của Phật Giáo” do nhà xuất bản Snow Lion phát
hành gần đây và hiện được dùng như là một tài liệu giảng dạy và tham khảo
chính trong các Ðại học Phật giáo, Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Tây
Tạng. Là một nhà sư phạm, GS Newland đã trình bày một cách rõ ràng, khúc
chiết về những vấn đề cốt tuỷ của triết học Phật giáo như Nhị Ðế, Vô Ngã,
Tánh Không thông qua quan điểm của bốn trường phái triết học chính của
Phật giáo: Phân Biệt Thuyết (Ðại Tỳ Bà Sa), Kinh Lượng Bộ, Duy Thức và
Trung Quán, hy vọng sẽ giúp cho người đọc lãnh hội những vấn đề này không
mấy khó khăn.
Nhận thấy trong khu rừng tài liệu Phật học
tiếng Việt, các tài liệu nghiên cứu về lãnh vực triết học Phật giáo còn
rất hạn chế, người dịch -dù khả năng còn hạn hẹp- cũng đã phát tâm chuyển
ngữ tác phẩm này sang tiếng Việt, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào kho
tài liệu tham khảo cho những người có nhu cầu nghiên cứu. Tuy rằng qua tác
phẩm này, Tứ đại thuyết phái đã được nhìn dưới lăng kính của Hoàng Mạo
phái, nhưng trừ phi bạn là người có trí tuệ siêu việt, đối với những Phật
tử trung bình như chúng ta, cái nhìn của Hoàng Mạo phái có thể được coi
như là một khởi điểm tốt để bắt đầu, bởi vì như GS. Newland nhận định:
“Cách tiếp cận của Hoàng Mạo phái là cố gắng tránh bớt đi những mâu thuẫn,
mập mờ khó hiểu càng nhiều càng tốt, cũng như nói về tánh Không bằng một
ngôn ngữ thông tục, ngôn ngữ mà chúng ta trao đổi trong cuộc sống đời
thường. Do phẩm tánh hoàn toàn bất nhị của nó, trực nghiệm về tánh không
là một kinh nghiệm nhận thức khác biệt tận căn bản với tất cả những gì mà
chúng ta đã từng biết qua. Tuy nhiên để có thể xây dựng nên một hệ thống
thuyết lý mạch lạc phù hợp với kinh nghiệm đời thường, cũng như nhằm mục
đích nhấn mạnh đến tính khả đắc của thực chứng rốt ráo (ngay cả bằng ý
thức loại suy), những nhà Hoàng Mạo phái đã thuyết giảng về tánh Không như
là cái gì khả tri, có thể nhận biết được, một cái gì đó có thể đạt đến và
hiểu thấu được.”
Trong khi dịch thuật tác phẩm này, nếu gặp
phải những điểm nào không được rõ ràng cần làm sáng tỏ, chúng tôi đã được
may mắn trực tiếp trao đổi với GS. Newland, và như vậy hy vọng nội dung
bản dịch của tác phẩm này được truyền đạt một cách trung thực đến độc giả.
Chúng tôi vì thế nhân đây xin được bày tỏ sự biết ơn của mình đối với sự
chấp thuận và khuyến khích của GS. Newland, cũng là một cao đồ của Ðức Ðạt
Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn, trong việc hình thành bản dịch Việt ngữ này.
Ðối với một số thuật ngữ Phật giáo trong tác phẩm này, chúng tôi vừa sử
dụng từ Hán Việt -để qúy vị đã từng quen với thuật ngữ Phật giáo dễ lãnh
hội- nhưng đồng thời cũng đã diễn giải ý niệm này ra một cách dễ hiểu hơn
và không quên kèm theo các danh từ Tạng ngữ, Phạn ngữ và Anh ngữ tương
đương để tiện cho việc tra cứu. Tuy nhiên dù có cố gắng đến mức nào đi
nữa, chắc chắn là bản dịch này cũng sẽ không tránh khỏi những khiếm
khuyết, hy vọng được chư Tôn đức, chư thiện hữu trí thức đóng góp ý kiến
để sửa chữa vì phúc lợi chung.
Một điểm cuối cùng cũng xin được nêu ra ở
đây là, như qúy vị biết, tác phẩm này thuộc bản quyền của nhà xuất bản
Snow Lion, bởi vậy nếu như bản dịch này được dùng để làm tài liệu giảng
dạy, nghiên cứu, hoặc bất cứ vị Phật tử nào phát tâm muốn ấn tống miễn phí
thì không có vấn đề; tuy nhiên nếu bất cứ qúy vị hay nhà xuất bản nào có
nhã ý muốn xuất bản bản dịch này đưa vào thị trường sách vở, xin vui lòng
thương thảo với nhà xuất bản nói trên.
Trân trọng.
Tâm Hà Lê Công Ða.
lecongda@aol.com
--------------
CHÚ THÍCH:
(1)
Thí dụ này được gợi ý từ lời chú giải của
một vị Thiền sư đương đại, Shengyen: “Không phải khi một người không còn
những ý nghĩ phân tán tức là vấn nạn của đương sự đã được giải quyết. Nếu
bạn cãm thấy thích thú được ở trong tình trạng như thế, thì cứ việc nhờ ai
đó đánh mạnh vào đầu. Có rất nhiều người không phân biệt được giữa trí tuệ
chân thực và trạng thái tịch tĩnh. Nếu bạn không hiểu được sự khác biệt
này, cho dù là bạn dày công tu tập, cũng chỉ uổng phí thôi.” -Trích từ
Faith in Mind in Deborah Sommer’s Chinese Religion. New York: Oxford,
1995. 337.
(2)
Lankavatarasutra (Descent into Lanka Sutra)
trích dẫn trong Practice and Theory of Tibetan Buddhism, bản dịch của Sopa
& Hopkins. New York: Grove Press, 1976. 53.
(3)
Muốn có một thí dụ về những kiến giải theo
truyền thống Tây Tạng, có thể đọc thêm: Meditation on Emptiness. Jeffrey
Hopkins. London: Wisdom, 1983. 353-364. Muốn có một thí dụ về những kiến
giải theo truyền thống kinh viện Tây phương, có thể đọc thêm: Mahayana
Buddhism. Paul Williams. New York: Routledge, 1989.
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 12-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Diệu Tường - Cát Tường
Cập nhật : 01-01-2003