SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
CHƯƠNG IX
Nhị Ðế và Bồ Tát Ðạo
Thấu hiểu một thuyết phái Phật giáo có
nghĩa là phải thấu hiểu những điểm cơ bản, đạo lộ, và đạo quả tu chứng của
thuyết phái đó. Trong nhữngï lý giải của Trung Quán Tông về Bồ tát đạo,
điều này có nghĩa là ta cần phải thấu hiểu :
(1)
Phúc đế và Chân đế;
(2)
Thực hành phương tiện thiện xảo và trí tuệ
; và
(3)
Sắc thân và chân thân của một vị Phật.
Mặc dù trọng tâm nghiên cứu của cuốn sách
này là những xác định chung quanh Nhị Ðế, chúng ta cũng đã cố gắng ghi
nhận những khẳng định của tứ đại thuyết phái Phật giáo về Nhị Ðế trên cơ
sở của đạo lộ và đạo quả của từng trường phái một.
Nhận thức rõ những phúc đế được thiết định như thế nào -ví dụ
như con người hiện hữu một cách công ước, những nghiệp hành, nghiệp quả,
v.v...- có thể làm phát khởi lòng từ bi và tích lũy công đức qua việc thực
hành lục độ ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v... mà tất cả
đều được thúc đẩy bởi động cơ chính là lòng từ vô hạn. Nếu một người mất
khả năng thiết định phúc đế, rơi vào chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến, họ rất dễ
dàng bị cuốn hút vào những hành động vô luân mà hậu quả là dẫn đến những
tái sanh vào các cảnh giới xấu ác. Mặc dù ta không hoàn toàn hiểu thấu
được cái ý nghĩa cho rằng nghiệp hành và nghiệp quả đều là những phúc đế,
tức là “những chân lý nhận biết bởi vô minh”, phải đợi đến sau khi ta thực
chứng được tánh Không của những hiện hữu tự thân để biết được chúng xuất
hiện một cách giả dối, niềm tin vào các hiện tượng giới công ước hiện hữu
và hành hoạt các chức năng của chúng là một điều cần thiết ngay từ khởi
điểm.
Trong khi một khả năng thiết định phúc đế như con người,
nghiệp hành và nghiệp quả, v.v... là điều cần thiết để tích lũy công đức
hầu tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn, sự giải phóng con người ra
khỏi vòng luân hồi sinh tử là bất khả thi nếu không có tuệ giác thực chứng
được Chân đế, tức là tánh Không, cái bản thể rốt ráo sau cùng của mọi hiện
tượng giới. Như vậy sự nhận thức vô phân biệt về Nhị Ðế cho phép vị Bồ Tát
gieo trồng công đức lẫn hạt giống trí tuệ. Hai tập hợp của công đức và trí
tuệ mang đến đạo quả thể hiện qua “sắc thân” (sắc tướng xuất hiện trong
thế giới này và những thế giới khác để giáo hóa chúng sanh) và “chân thân”
(tuệ giác của một vị Phật và tánh Không của tuệ giác đó) của một vị Phật.
Có người có thể cho rằng quả là điều nghịch lý nếu không nói
là phi lý khi một vị Bồ tát triển khai lòng đại từ bi đối với những chúng
sanh đã không hề tự khẳng định sự hiện hữu, những chúng sanh chỉ thuần là
những ý niệm giả lập; tuy nhiên trong thực tế tu tập, từ bi và trí tuệ đã
phát huy tác dụng khi được kết hợp một cách viên dung. Thực chứng tánh
Không hổ trợ, củng cố, và hoạt động song hành cùng với từ bi và vị tha
trong nhiều cách thế khác nhau:
(1)
Khi nhận thấy rằng không có một cái hiện
hữu tự thân khác nhau giữa một cái ta và kẻ khác, nhà hành giả Du già xoá
nhòa dần lòng thương yêu vị kỷ “chỉ biết tìm kiếm cái số một”, tức là cho
rằng có một cái ngã thực sự hiện hữu “ở đây” cần phải được bảo vệ và nuông
chìu không cần đếm xỉa đến kẻ khác hoặc ngay cả dưới cái giá phải trả của
kẻ khác.
(2)
Khi nhận thấy rằng mình chia xẻ cùng tất cả
mọi loại chúng sanh một bản thể cơ bản về tánh Không, nhà hành giả Du già
củng cố cảm giác sâu xa về mối thân cận và liên hệ với tha nhân, tức là
yếu tố chính của lòng thương yêu và từ bi.
(3)
Trong mối khát khao vươn đến Phật quả vì
hạnh phúc của muôn loài, nhận chân được rằng điều này đòi hỏi một nỗ lực
cố gắng và hy sinh vô cùng lớn lao, nhà hành giả Du già cần được võ trang
bằng một niềm tin vững chắc rằng họ có thể trở thành một vị Phật. Niềm tin
này lớn mạnh qua sự nhận thức rằng những khả năng hữu hạn của ta để giúp
đỡ tha nhân trong hiện tại không phải là bản tánh tự thân -bản tánh đó là
tánh Không tinh khiết, vốn có khả năng rộng mở không bờ bến về sự tự
chuyển hóa.
(4)
Cuối cùng, khi một vị Bồ tát thực hành
những hạnh nguyện do lòng từ bi thúc đẩy, cụ thể như bố thí ba la mật, tất
cả những hành động này đều được tịnh hoá để trở thành “viên mãn” thông qua
tri kiến của vị bồ tát rằng người bố thí, vật bố thí và hành động bố thí
tất cả đều trống rỗng hiện hữu tự thân.
Trái lại, tinh thần vị tha nâng cao khả
năng phát triển trí tuệ bằng cách hổ trợ một động cơ thúc đẩy rất tinh
khiết và mạnh mẽ cho việc thiền quán tánh Không. Theo trường phái Quy Mậu
Biện Chứng, những hành giả của Tiểu thừa cũng thực chứng một tánh Không
sâu sắc như một bậc Bồ tát thực chứng, đó là tánh Không của hiện hữu tự
thân. Tuy nhiên, những hành giả Tiểu thừa, do được thúc đẩy bởi ý nguyện
chính là đạt đến sự giải thoát cho riêng cá nhân mình, đã chỉ tiếp cận
tánh Không thông qua một vài lý do hạn định, nhằm vươn đến sự giải phóng
an bình một cách cá nhân như là những A la hán. Bậc Bồ Tát, trái lại trong
khi tìm kiếm mọi cách để gia tăng tối đa khả năng cứu độ chúng sinh,
đãphong phú hoá kinh nghiệm của mình trong trăm nghìn cách tiếp cận việc
thực chứng tánh Không. Thúc đẩy bởi lòng vị tha không bờ bến, họ tự trui
rèn mình trong việc vun trồng công đức và trau dồi trí tuệ qua không biết
bao nhiêu a tăng tỳ kiếp. Với vô lượng công đức được tích luỹ này, không
những cho phép bậc Bồ Tát vượt qua những trở ngại trên hành trình giải
thoát, mà còn cả những trở ngại nhằm vươn đến tình trạng nhất thiết trí,
toàn tri toàn giác.
11.14.02
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---