TIẾT THỨ HAI: SỰ TRIỂN KHAI CỦA THUYẾT TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG
PHẬT GIÁO.
Ðứng trên lập trường tự lực chủ nghĩa mà nhận xét vấn đề này, ta
thấy Phập Giáo Nguyên thủy dĩ nhiên đã không dựng lên một vị
Nhân-Cách-Thần nào, mà trên đại thể, đã hoàn toàn là tự lực chủ
nghĩa. Ðến thời đại Bộ-phái, cũng có phái chủ trương theo đúng lời
Phật dạy "Tự mình thấp đuốc lên mà đi" và lấy đó làm phương châm tu
dưỡng. Nhưng đến điểm ngộ nhập thì trong đó lại phát sinh ra chủ
trương tha lực, nghĩa là do người khác mà ngộ nhập Thánh-đạo. Vì nảy
sinh ra tư tưởng đó (chủ trương của Ðại-chúng-bộ) cho nên trong nội
bộ giáo hội cũng lại phát sinh ra những mối tranh luận, đây là sự
thật hiển nhiên trong thời kỳ đầu của lịch sử giáo hội. Về điểm này,
đặc biệt thú vị là sự bất đồng giữa phái Du-Già (Yoga) và phái Số
Luận (Samkhya). Phái Số Luận muốn do tự lực quan sát để đạt đến cảnh
giới giải thoát an vui, trái lại Du Già phái lập nên một đấng thần
linh để mong cầu sức phù trì gia hộ và coi đó là phương tiện để đạt
đến mục đích giải thoát.
Xem hai chủ trương trên đây ta có thể nhận thấy sự đối lập giữa tự
lực và tha lực chủ nghĩa. Nếu đem vấn đề này mà khai triển thêm thì
dĩ nhiên ta không thể không đề cập đến Ðại Thừa Phật Giáo. Cái gọi
là sự hơn, kém giữa Tự-lực-thánh-đạo-môn và Tha-lực-tịnh-độ môn
trong tín ngưỡng Phật Giáo, trong một truờng hợp nào đó, chính là
vấn đề đã được bàn luận một cách sội nổi. Một đặc trưng của giáo lý
Ðại Thừa là: một mặt thừa nhận Phật tính của ta, mặt khác lấy chủ
thể từ bi cứu độ để khai triển tư tưởng Phật thân thường trụ, cho
nên vấn đề tự lực và tha lực tự nhiên đã sinh khởi.
Thế là những người chủ trương tự lực chủ nghĩa thì cho rằng đức Phật
tuy cũng cứu độ, nhưng điều đó chỉ có nghĩa như một nguời chỉ đường
mà thôi, chứ thật sự việc giải thoát là phải do chính mình nỗ lực tự
tạo lấy bằng cách mở mang trí tuệ và phát triển Phật tính: còn những
người chủ trương tha lực chủ nghĩa thì lại cho rằng nhệm vụ của Phật
là dùng lòng từ bi vô điều kiện để cứu độ hết thảy chúng sinh, nhất
là trường hợp Phật Di-Ðà, vì đã phát nguyện nếu chưa độ hết chúng
sinh thì không thành Phật, cho nên, để giữ lời nguyện ước đó, Ngài
không đợi chúng ta phải cầu khẩn hay cố gắng, theo phương diện tương
đối mà đến cứu độ. Và theo chủ trương đó, nhiều sự phê phán về
phương diện hơn kém trong việc được cứu độ đã được thiết lập. Nếu
lấy các tông phái Phật Giáo tại Nhật Bản hiện giờ mà nói Tịnh Ðộ
Tông, Chân Tông thuộc về tha lực tịnh độ môn; còn tất cả các tông
phái khác thuộc về Tự lực thánh đạo môn. Nhưng sự đối lập rõ rệt
nhất là Chân Tông và Thiền Tông, Chân Tông quy tất cả về bản nguyện
của Phật Di Ðà, không thừa nhận một chút tự lực nào; còn Thiền Tông,
trái lại vì chủ trương "trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật "
cho nên quy tất cả cho tự lực: cả hai đều rất triệt để.
Mục đích của tôi ở đây không phải trình bày lịch sử của chủ nghĩa tự
lực và tha lực, cho nên vấn đề phê phán sự thực cũng như sự hơn kém
của nó xin miễn không bàn tới. Khi nêu ra vấn đề này, tôi chỉ muốn
phát hiện sự điều hòa giữa hai chủ nghĩa đó thôi. Và theo chổ tôi
hiểu thì về ý thức tôn giáo, cái gọi là tự lực tha lực chẳng qua là
sự bất đồng trên văn từ hoặc khái niệm, chứ về bản chất thật ra
không có sự khu biệt nào cả. Trong tự bao hàm cả tha và ngược lại
trong tha bao gồm cả tự, nhưng chỉ vì quá câu nệ về danh tướng nên
chia có tự có tha. Bây giờ nếu ta muốn tìm hiểu cái bản chất của hai
chủ nghĩa thì ít ra ta phải gạt bỏ mọi thiên kiến tông phái; đó là
mục đích của tôi khi nêu lên vấn đề này để bàn luận.
TIẾT THỨ
BA: BẢN CHẤT HỌAT ÐỘNG CỦA SINH MỆNH.
Muốn hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa tự lực và chủ nghĩa tha lực,
trước hết ta cần phải hiểu tự thể của ý thức tôn giáo như thế nào.
Song, muốn thuyết minh tự thể của ý thức tôn giáo, ta cần phải hiểu
cái bản chất hoạt động của sinh mệnh trước đã.
Ở
đây ta hãy tạm gác vấn đề vũ trụ luận. Bản chất của sinh vật là ở ý
chí muốn sống còn: đó là quan điểm của Phật và Schopenhauer. Song,
cái ý chí muốn sống còn đó là cái tự thể vô minh; nói theo
Schopenhauer thì đó là cái ý manh mục. Tuy nhiên, nó có thể hoạt
động đầy đủ theo ba khuynh hướng. Nói theo Phật, con người lấy sinh
tồn dục làm trung tâm mà hướng đến việc khoáng trương ái dục và danh
lợi dục. Ðó chính là biểu hiện bản năng thực dục (bảo tồn chính mình
), tính dục (bảo tồn chủng tộc), du hý dục (tự do). Tất cả mọi sinh
vật, bất luận là hữu thức hay vô thức, đều hoạt động theo ba cái dục
căn bản đó.
Vậy ý thức tôn giáo có địa vị và ý nghĩa gì đối với hoạt động sinh
động? Hoạt động sinh mệnh tự thể tuy là manh mục (mù quáng), nhưng
vì luôn luôn có khuynh hướng khai triển nên mới phát sinh ra những
hoạt động tâm lý. Ðức Phật nói do hành (ý chí) mà sinh thức,
Schopenhauer nói do ý chí mà có biểu tượng chính là cái đó. Như vậy
là do hoạt động sinh mệnh mà tiến triển đến hoạt động tâm lý, rồi
phát đạt mà thành lý tính trong đó con người tự sinh khởi ý thức. Sự
dục động của ta, xét về mặt biểu hiện, chẳng qua là để thỏa mãn yêu
cầu khát dục; nhưng một khi tìm đến ý nghĩa tiềm tàng tại nội bộ,
thì sự dục động đó lấy việc duy trì, kế tục và tự do khoáng đại sinh
mệnh làm mục tiêu mà tiến triển. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi
người đều tự ý thức được nghĩa đó, nhưng mặc dầu vô ý thức, tất cả
mọi người đều lấy đó mà mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp mà hành
động: đó là một sự thật hiển nhiên. Mà sự duy trì, kế tục, khoáng
đại tự do đó cuối cùng tiến tới vô hạn. Do đó con người mới lấy vô
hạn làm mục đích để tư duy và hành động: và căn cứ vào đó mà con
người hữu hạn đã có những yêu cầu vô hạn.
Ta
hãy tạm gọi đó là yêu cầu "cầu sinh mệnh vô hạn" hoặc là "sinh mệnh
tuyệt đối" Đương nhiên nếu nói theo tâm lý học thì yêu cầu đó là yêu
cầu kéo dài cuộc sống hiện thực. Còn về phương diện tôn giáo, ta có
thể nói yêu cầu đạt đến sinh mệnh tuyệt đối.
TIẾT THỨ TƯ : YÊU CẦU VÔ HẠN SINH MỆNH VỚI Ý THỨC TÔN GIÁO.
Một khi đã ý thức đến yêu cầu đó thì yêu cầu ý chí của chúng ta do
đó cũng gồm có hai đặc tính: nghĩa là một xây dựng trên cơ sở dục
động mà thực hiện khuynh hướng tìm cầu sự khoái lạc; còn một thì lại
mong cầu một sự sống lý tưởng tuyệt đối. Mà hai yêu cầu đó tuy là
hai khía cạnh ngoại diện và nội diện của chính sự sống, nhưng khi
nghiên cứu nó thì tựa hồ nó lại biểu hiện một cách tuyệt đối không
dung hợp nhau. Một là yêu cầu cấp thiết, còn một lại là toàn nhất,
do đó yêu cầu trước có tính cách cá thể, còn yêu cầu sau có tính
cách phổ biến; cái trước là vật chất, cái sau là tinh thần; cái
trước là yêu cầu bất tuyệt mà không thỏa mãn, cái sau là lý tưởng
tuyệt đối thỏa mãn ; cái trước là tạm bợ, cái sau là vĩnh cửu.Vậy
hai yêu cầu này là một hay khác nhau ? Diểm này, khi nói đến sự
không dung hòa thì nó nghiễm nhiên trở thành đối lập.
Nếu khảo sát những hoạt động của sinh mệnh một cách toàn thể thì
tất lại phải tiến đến vấn đề ý thức tôn giáo. Trong sự thành lập của
các tôn giáo tuy có nhiều loại và trình độ khác nhau, nhưng nếu đứng
về phương diện yêu cầu mà nói, thì bất luận tôn giáo nào cũng không
ngoài việc lấy yêu cầu sinh mệng tuyệt đối trên đây làm nội chứng để
thực hiện yêu cầu của mình, tức là yêu cầu sinh mệnh vô hạn lấy liên
tục, tự do và sáng suốt làm sáng suốt làm thuộc tính. Mà lòng yều
cầu đó tức là tâm tôn giáo hoặc gọi là tâm Bồ Ðề. Kết hợp tự giác
với lòng từ bi cứu thế mà hoạt động trong trạng thái giải thoát. Lấy
một vị Thượng Ðế toàn trí, toàn năng của Cơ Ðốc làm thuộc tính, lấy
đức Phật Di Ðà vô lượng quang, vô lượng thọ làm thuộc tính, lấy Phật
Thích-Ca thường ở trên núi Linh Thứu làm thuộc tính đều là những chủ
trương muốn thích ứng yêu cầu sinh mệnh tuyệt đối vậy. Nhất là trong
Phật Giáo tuy cũng có phái lấy Niết-Bàn không tịch làm lý tưởng,
nhưng Niết-Bàn không tịch đó chẳng qua cũng chỉ là sự biểu hiện khía
cạnh khác của sinh mệnh tuyệt đối mà thôi.
Như vậy, tất cả các tôn giáo, mặc dầu khác nhau về trình độ nhưng
bất luận dưới hình thái nào, trong thâm tâm ít ra cũng có thể nói
rằng đều lấy sinh mệnh vô hạn làm mục tiêu và lấy sự thực hiện sinh
mệnh đó làm bản chất.
TIẾT THỨ NĂM: SỰ THỰC HIỆN SINH MỆNH VÔ HẠN VỚI THUYẾT TỰ LỰC VÀ THA
LỰC.
Như vậy các phương pháp để thực hiện sinh mệnh tuyệt đối đó như thế
nào? Đây mới chính là vấn đề then chốt, một vấn đề trung tâm có mối
quan hệ đến chủ nghĩa tự lực và chủ nghĩa tha lực.
Nhìn qua lịch sử tôn giáo, từ xưa đến nay, những phương pháp được
các tôn giáo áp dụng tuy rất nhiều, nhưng nếu căn cứ theo ý thức
ntôn giáo vừa nói trên mà phân loại, thì đại khái có hai phương pháp
hoàn toàn khác nhau: một chuyên lấy việc ức chế sinh mệnh hiện thực
làm tôn chỉ, và một chuyên lấy việc trong đợi sự hoạt diệu của chính
sinh mệnh tuyệt đối làm tôn chỉ.
Ðứng về mặt phương pháp lấy ức chế sinh mệnh hiện thực mà nói thì
chúng ta tuy có yêu cầu sinh mệnh vô hạn, nhưng sở dĩ không thực
hiện được là vì chúng quá lệ thuộc vào những sinh hoạt hiện thực, bị
vật dục trói buộc, không thể vươn lên lý tưởng sinh mệnh tuyệt đối
được. Bởi thế, nếu muốn thực hiện được sinh mệnh tuyệt đối, cần phải
vượt lên trên sinh hoạt hiện thực thì phải ức chế những dục vọng bản
năng, nhất là ngã chấp, ngã dục. Ức chế được ngã chấp, ngã dục thì
sinh mệnh tuyệt đối tự nó sẽ biểu hiện, vì con người lúc đó đã tự
giác, đã được giải thoát. Mà sự ức chế ngã-chấp, ngã-dục đáo để phải
nhờ vào nổ lực bản thân, phải có một tinh thần phấn đấu mạnh mẽ và
bất tuyệt.
Đứng về mặt phương pháp chuyên trông đợi ở sự hoạt diệu của sinh
mệnh tuyệt đối mà nói thì cái ta nhỏ bé này dù có cố gắng mấy đi nữa
cũng chỉ là cái sức nhỏ nhoi, yếu ớt, không thể tự lực vươn lên đến
sinh mệnh tuyệt đối được, cũng như người ta đứng lơ lửng giữa không
trung được. Con người muốn thực hiện sinh mệnh tuyệt đối cần phải
nhờ một sức thiêng liêng ở ngoài cái ta bé nhỏ hẹp hòi này. Vì trông
đợi ở một đấng từ bi bác ái cứu thế ấy, nên mới dốc lòng cầu nguyện,
mong đem cái tâm kiền thành cầu sự cứu rỗi giải thoát ở sức thiêng
liêng đó, chứ không tin ở nổ lực bản thân. Ðó là lập trường của
những người chủ trương tha-lực chủ nghĩa, nghĩa là chủ trương cho
rằng sinh mệnh tuyệt đối chỉ có thể tìm ở ngoài bản thân.
Như vậy ta thấy về phương pháp thực hiện sinh mệnh tuyệt đối giữa
các tôn giáo hoặc tông phái rõ rằng những quan điểm hoàn toàn bất
đồng, mà chung quy cũng liên quan đến hai chủ trương căn bản là
Tự-lực chủ nghĩa và Tha-lực chủ nghĩa.
TIẾT
THỨ SÁU : SỰ QUAN HỆ GIỮA TỰ LỰC VÀ THA LỰC.
Tiến một bước nữa mà khảo sát thì sự tương quan giữa hai chủ nghĩa
trên như thế nào? Và con đường điều hòa giữa hai chủ nghĩa ấy ra
sao? Nếu nói một cách tương đối, tuy có những khuynh hướng tự lực,
tha lực khác nhau, nhưng lập trường của đa số tôn giáo tựa hồ cũng
muốn điều hòa giữa hai chủ nghĩa này. Nghĩa một mặt do chủ nghĩa ức
chế ngã chấp, ngã dục, mặt khác, trông mong một tha lực tuyệt đối từ
bi cứu tế của một vị Phật hoặc một vị thần thiêng liêng làm chỗ an
tâm lập mệnh. Nhìn vào hình thức hành đạo của tất cả các tôn giáo ta
đều thấy hiện tượng đó. Ở đây tôi muốn tìm ra mối quan hệ cũng như
sự điều hòa giữa hai chủ nghĩa và thử xem có hay không có cái khả
năng tính thống nhất.
Như trên kia tôi đã nói qua, đối với vấn đề này, nếu chỉ nhận xét
qua hình thức, thì giữa hai chủ nghĩa tuy có điểm tuyệt đối bất
đồng, nhưng nếu nói theo kinh nghiệm thuần túy tôn giáo thì nó lại
có điểm tuơng dung: có thể nói chẳng qua cùng một kinh nghiệm mà
phiên dịch thành những biểu tượng khác nhau mà thôi.
Trước hết hãy đề cập đến chủ nghĩa tuyệt đối tự lực. Lập trường của
Phật Giáo Nguyên thủy và Thiền -Tôn là: không ỷ lại vào Trời, không
ỷ lại vào Thần, duy chỉ nhờ vào sự khắc phục lấy mình mà triệt để
đại ngộ: đó là phương châm tu dưỡng của chủ nghĩa Tự-Lực. Tuy nhiên,
khi đạt đến giai đoạn chứng ngộ lại không thể không nhờ một thứ tha
lực. Tại sao vậy? Vì phương pháp hành đạo để đạt đến chứng ngộ tuy
có thể do ý chí của hành-giả quy định, nhưng cái đương thể của sự
chứng ngộ thì cuối cùng lại phải tùy thuộc vào cái gọi là "thời tiết
nhân duyên ". Nghĩa là dù cho hành giả có tự nổ lực đến đâu đi nữa
mà thời tiết nhân duyên chưa đến thì vẫn chưa có thể chứng ngộ được.
Sự chứng ngộ ở đây có nghĩa là thực hiện sự giải thoát, mà giải
thoát lại là trạng thái bộc phát bất thần, cho nên, đứng về phương
diện của người tu hành mà nói, ta có thể cho đó là một loại
"Thiên-khải". Ðức Phật phải mất sáu năm mới thành Chính-Giác; A Nan
đã gần gũi Phật hai mươi lăm năm sau khi Phật nhập diệt mới khai
ngộ. Sự bộc phát bất thần: tức là "hốt nhiên đại ngộ"; thật sự đã
xãy ra trong mọi trường hợp chứng ngộ, đặc biệt ta thấy trong các
truyện ký về ngộ đạo tại Trung Quốc và Nhật Bản điểm này rất rõ
ràng. Tuy có phân chia Nam đốn, BẮc tiệm khác nhau, nhưng đến sự
chứng ngộ thì được như một sự kiện "Thiên khải " siêu việt hẳn sự tư
lự và phân biệt. Dĩ nhiên sự "hốt nhiên đại ngộ" đó, trên đại thể,
tuy là do kết quả do công khu tu luyện, nhưng cái đó chưa hẳn là
điều kiện duy nhất, mà yếu tố "cơ hội bất khả tư nghị" ( thời tiết
nhân duyên) cũng đóng một vai trò quan trọng. Ðiểm này rất tương tự
với cái gọi là Dự định luận của tính ngưỡng tha lực, nghĩa là sự cứu
tế đến mau hay chậm là tùy thuộc ở ý chí của đấng Thiêng liêng tuyệt
đối. "Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông" tuy là chủ nghĩa tha lực
của Gia Tô Giáo, thế nhưng ngay đến chủ nghĩa tư lực của Thiền Tôn
cái quan hệ" hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông" đó cũng được biểu
hiện trong câu "Thối, chác đồng thời ", nghĩa là (theo truyền
thuyết), cái trứng sắp đến lúc nở. Con chim con ở trong động đậy thì
ngay lúc đó chim mẹ ở ngoài mổ vỏ trứng để cho chim con ra. Cái cảnh
giới chứng ngộ cũng vậy, do nỗ lực của hành giả cùng với thời tiết
nhân duyên trong ngoài nhất trí mới ngộ đạt được. Theo một ý nghĩa
sâu xa mà nói thì chủ nghĩa tự lực chung cùng cũng phải nhất trí tha
lực, bởi vì cảnh giải thoát tuy có thể tìm cầu ngay trong chính
mình, nhưng nếu siêu việt cái tự kỷ nhỏ bé thì lại tưởng đến một cái
gì ở ngoài mình.
Bây giờ bước sang chủ nghĩa tha lực. Trung tâm của chủ nghĩa này là
khước từ ý chí tự kỷ hoàn toàn và tuyệt đối trông cậy ở một đấng
thiêng liêng tối cao. Nhưng nếu muốn có được đức tin ấy, trước hết
không thể bỏ qua cái tác dụng của tự lực. Vì lòng khẩn cầu nhờ vào
tha lực để đạt đến tuyệt đối, nhưng nếu không xả ly ngả chấp, ngã
dục thì quyết không thể hướng đến tuyệt đối được. Mà xả ly ngã chấp,
ngã dục tức là đã phải nhờ vào tự lực rồi. Chẳng hạn, tin tưởng niệm
Phật, nhờ nguyện lực của Phật để được giải thoát, nhưng nếu không
cùng một lúc tinh tiến diệt bỏ tham, sân, si thì chí nguyện không
thể thành. Duy có điểm bất đồng giữa chủ nghĩa tự lực cho sự diệt
trừ ngã chấp, ngã dục là nơi ý chí của chính mình, còn chủ nghĩa tha
lực thì lại cho là do hơi tha lực giúp đỡ. Nhưng bất luận là giải
thích theo cách nào đi nữa người ta cũng đều lấy ý chí xả ly
ngã-chấp, ngã dục làm điều kiện tất yếu để được cứu rỗi hay chứng
ngộ: có thể nói, trên thực chất điểm này hoàn toàn giống nhau.
Như vậy, nhận xét theo hai phương diện, nghĩa là trong tự lực bao
hàm cái lý tha lực, và trong tha lực cũng bao hàm cái lý tha tự lực,
ta thấy tự hay tha chẳng qua chí bất đồng trên quan điểm mà thôi.
Hơn nữa, nếu nhìn vào tự thể ý thức tôn giáo thì cái cảnh giới đạt
đến có thể nói là tâm thái đồng nhất. Lập trường của các phái tuy có
chỗ khác nhau, nhưng giữa các bậc Thánh nhân, nếu ta quan sát một
cách tường tận, ta sẽ thấy có nhiều điểm nhất trí khiến ta phải ngạc
nhiên: đó là một sự thật. Cái gọi là Di-Ðà là Thiên-Ðế, là tâm tính,
chẳng qua chỉ là sự phiên dịch thành biểu tưởng và danh từ khác nhau
của yêu cầu sinh mệnh tuyệt đối mà người ta muốn thể hiện bằng sự tự
giác cái đương thể đó mà thôi.
TIẾT THỨ BẢY: PHƯƠNG PHÁP ÐIỀU HÒA GIỮA TỰ LỰC VÀ THA LỰC.
Căn cứ vào những sự khảo sát trên để tiến đến tinh thần biểu tượng
và thực hành, ta thấy có cách nào để điều hòa hai chủ nghĩa tự lực
và tha lực không? Nói cách khác, dựa vào giáo lý nào để duy trì cái
ý thức thuần túy trên đây? Và muốn thực hiện nó phải làm thế nào? Ðó
là những vấn đề không thể không bàn đến.
Trước hết hãy nói về phương diện giáo lý. Sự giáo lý hóa ý thức tôn
giáo tuy có nhiều giai đoạn khác nhau nhưng theo A.Drew, có thể chia
nó thành ba giai đoạn. Thứ nhất, trực quán cảm giác (Diesinnlieh
Anshauung); thứ hai, biểu tượng (Die Vorstellung); và thứ ba, lý
niệm (Die Idee).
1)
Trực quán cảm giác là cái gọi là Ða Thuần Giáo, ngoài tự kỷ ra lập
nên nhiều Thần.
2)
Biểu tượng là Nhất Thần giáo chủ trương Nhị-nguyên luận, cho Thần là
thống nhất và duy nhất, nhưng lại cho thế giới và sinh vật tồn tại
ngoài Thần.
3)
Lý niệm, A.Drew còn gọi nó là Nhất Nguyên luận cụ thể (Der konkrete
Monismus), tuy cho Thần ở ngay trong tự kỷ, nhưng lại chủ trương ý
thức cá nhân tồn tại ngoài Thần: có thể nói đây là một loại khảo sát
Phiếm Thần luận (Arthur Drews, Dre Religion als Selbstbewusstsein
des Gottes, pp. 163 _184).
Vậy trong những thuyết trên đây, thuyết nào thích hợp với sự chỉ
dương thống hợp giữa hai chủ nghĩa tự và tha lực? Ðương nhiên là
thuyết Lý niệm thứ ba thích hợp hơn cả. Tại sao? Vì Ða-thần trong
cái gọi là đối tượng tạp tu tạp hành tuy là thích hợp, nhưng nếu
theo đó mà thống hợp triệt để chủ nghĩa tự lực và tha lực thì rất
khó, cho nên nó không thích hợp. Còn Nhất Thần Giáo siêu việt tuy
cũng thích hợp để sinh khởi và duy trì chủ nghĩa tự lực, nhưng thống
hợp cả hai thì nó lại không thích đáng. Ðến tôn giáo lý niệm thì đặc
biệt, trên tính chất, kiêm cả hai chủ nghĩa nên có thể đứng trên tư
cách đó để thống hợp điều hòa. Trong Ðại Thừa Phật Giáo, như triết
học Khởi-Tín-Luận chính là đứng trên lập trường này để phê phán và
thống hợp hai chủ nghĩa đó. Nghĩa là lấy tâm Chân-như (lý niệm thể)
để thuyết minh quá trình thực hiện tự kỷ. Một mặt khác lại nói dùng
các pháp thanh tịnh để huân tập tự thể Chân-như, tiêu diệt tác dụng
mê tình: đó là phương pháp nhằm chỉ dương hai chủ nghĩa, mà lập
công. Chính trong Áo Nghĩa Thư ta cũng thấy ý tứ phảng phất giống
như lập trường tôn giáo lý niệm này. Cái chân ngã dù có nhờ Phệ Ðà,
nhờ năng lực lý giải, hay nhờ học nhiều đi nữa cũng không thể có
được, mà duy chỉ nhờ chính cái chân ngã đó quyết định mới được.
Nghĩa là, cái đương thể của chân ngã không phải nhờ ở sự tạp tu tạp
hành mà có được, duy chỉ nhờ ở sự hoạt động thiên khải của chính
chân nhã đó, trên đại thể tuy là chủ nghĩa tự lực, nhưng trong đó
vẫn phảng phất cái ý tứ tha lực mà không mâu thuẫn , cho nên ta có
thể cho đó là phương pháp ngụ ý tổng hợp hai chủ nghĩa. Sau này đến
phái Vedanta, cái tư tưởng đó của Áo Nghĩa Thư lại càng trở nên rõ
rệt.
Cứ
theo hai thí dụ trên đây, ta thấy tôn giáo lý niệm là tổ chức giáo
lý duy nhất phù hợp với sự thống nhất hai chủ nghĩa, không những thế
nó còn là hình thức thể hiện gần đúng với tự thể của tôn giáo nữa.
Cái lý do tại sao tôn giáo lý niệm được coi là cao siêu nhất trong
các tôn giáo chính là ở điểm này. Song, nếu đặt nó thành vấn đề lý
luận mà khảo sát cho thật khúc chiết, để giải quyết mọi vấn đề tiềm
tàng trong đó, thì không thể nói một cách đơn giản được vì đây là
một vấn đề vô cùng trọng đại, bởi thế chỉ xin trình bày những chỗ
đại thể mà thôi.
Sau nữa, phải có thái độ hay tâm địa nào để thích ứng với tôn giáo
lý niệm đó mà thực hiện nó trong cuộc sống thực tế? Về vấn đề này,
nếu nói một cách đơn giản thì: đặc trường của chủ nghĩa tự lực ở chỗ
nỗ lực; đặc trường của chủ nghĩa tha lực là ở sự an vật. Như vậy,
cái phương pháp điều hòa hai chủ nghĩa để thống nhất nó trong cuộc
sống thực tế, tóm lại, là ở nơi sự cố gắng liên tục không ngừng. Mà
hễ thấu hiểu được tôn giáo lý niệm một cách triệt để thì tự nhiên
cái thái độ hay tâm cảnh cũng xuất hiện, Vì nói theo tôn giáo lý
niệm, tuyệt đối vì bản chất của ta và của thế giới, cho nên tuy
chúng ta đã có thể bảo chứng được thân phận an trụ tuyệt đối, nhưng
cái hiện được cái đương thể đó một cách như thực. Bởi thế, cần phải
có sự nỗ lực liên tục, bất tuyệt trong công cuộc thực tu. Ðây tuy là
một thí dụ cổ xưa, nhưng, lấy lý niệm làm bối cảnh, thái độ của
chúng ta đối với cuộc sống thực không thể không liên tục mài dũa
viên bảo châu, Mài gạch thành gương tuy là một công việc làm uổng
công, nhưng mài ngọc để làm cho có ánh sáng là việc làm có hy vọng
thành công. Cho nên, nỗ lực, hy vọng và hoan hỷ phải được thống hợp
trong việc thực hành để thể hiện cái khả năng tính duyệt đối. Cái
thái độ thực tế lấy tín ngưỡng lý niệm làm bối cảnh cũng thế. Nói
một cách dễ hiểu hơn, được cổ vũ bởi lý tưởng vĩnh viễn, hành giả
vui vẽ hăng hái tiến tới mục tiêu, tự lực cũng được mà tha lực cũng
được, tất cả đều được thống hợp,
---o0o---
Mục Lục
Thiên thứ nhất:
Chương
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Thiên thứ hai:
Chương
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
Thiên thứ ba:
Chương
1 |
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
---o0o---
Vi tính: Cao Thân
Trình bày:
Linh Thoại
Cập nhật: 12-2003