- Ai người biết chân thật
là chân thật
- Phi chân là phi chân
- Và tôn vinh sự suy nghĩ đúng
đắn đó
- Sẽ mau đạt đến cái chân thật.
- Kinh Pháp Cú - 12
Sau Kristallnacht năm 1938, giữa những người Do thái ở Bá
Linh có một câu chuyện tiếu lâm hay đưọc kể: Hai người Do thái đang đứng
xếp hàng để xin hộ chiếu. Một người
muốn đi Mỹ. "Còn anh định đi
đâu", anh ta hỏi người bạn. Người
kia trã lời: "Đến Thượng Hải". Người
thứ nhất nói: "Xa dữ vậy sao?". "Xa
tính từ đâu", người bạn trã lời.
Phải có đầu óc khôi hài người ta mới nghĩ ra đưọc
những chuyện cười châm chọc đó. Đặc
biệt người Do thái có biệt tài đó -có lẻ vì trong lịch sử, họ có
quá nhiều những sự bất hạnh. Có
hàng trăm câu chuyện cười về người di dân Do thái và những hoàn cảnh
trớ trêu của họ. Như tôi đã nói,
Thượng Hải lúc đó là chổ nương thân cuối cùng của người Do thái ở
Châu Aâu. Phần lớn các nước khác
đều đóng cửa biên giới. Uruguay gửi
trả một thuyền đầy dân di tản trở về Đức. Mỹ và Uùc thì chỉ nhận vào một số
công dân đặc biệt.
Theo một ký kết hằng trăm năm về trước giữa Anh-Trung
Hoa, Thượng Hải trở thành một thành phố tự do, nghĩa là ai vào cũng không
cần hộ chiếu. Giữa những năm
1938-1941, hai mươi ngàn người Do thái đã đến lánh nạn tại đây. Một nơi rất xa quê hương, nhưng sau nầy
chúng tôi biết rằng như thế cũng chưa xa đủ.
Cha mẹ tôi đứng đợi dưới bến tàu khi chiếc Haruna
Maru cập bờ. Khi nhìn thấy họ, một
tảng đá -không, mười tảng đá- đang đè nặng trên tim tôi, bỗng biến
mất. Cha tôi mặc chiếc áo khoác
đen, ông vẫn thường mặc ở Bá Linh. Chúng
tôi trèo lên hai chiếc xe kéo cùng với hành lý, có chiệc hộp đựng thuốc
bằng vàng của cậu tôi ở Luân Đôn đưọc giấu kín trong đó. Trời rất lạnh; các ngọn gió rét mướt
từ các thảo nguyên Mông Cổ thồi qua các đường phố Thượng Hải như cắt
da. Dầu vậy, áo hai người phu kéo xe
vẫn đẩm ướt mồ hôi, đến đổi giống như hơi nước thoát ra từ
thân họ bay lên. Tôi không quen ngồi
trong những xe kéo bằng người. Tôi
đưọc biết rất ít người trong họ sống lâu, ai cũng chết vì nghề nghiệp. Nhưng đó là cách người ta kiếm sống ơ
Thượng Hải. Không ai có thể thay đổi
đưọc điều đó -nhất là tôi. Cũng
may sau nầy người ta đổi qua người đạp xe (LND: dạng như xích lô).
Chúng tôi đi qua khu vực dành cho người Pháp. Thượng Hải lúc đó là một cửa khẩu
quốc tế tự do, có khu dành cho người Pháp, người Anh, Mỹ và Trung Hoa. Tôi nhận thấy đó là một thành phố tồi
tàn trong một ngày mùa đông, chỉ trừ nơi có các ngân hàng, khu thương mại
của người Anh thì khá hơn.
Hai người phu xe dừng trước một tòa chung cư khá đẹp. Tôi trèo lên các nấc thang với cha mẹ,
cha tôi mở cửa ra, và tôi bước vào một căn phòng với đồ đạc bàn ghế
từ Bá Linh. Không biết bằng cách
nào đó, sau khi ra đi, cha mẹ tôi đưọc người ta gửi tàu ra cho họ một
ít bàn ghế, tranh, và mấy tấm thảm Ba tư.
Thật là một cảnh tượng lạ lùng, những đồ đạc quen thuộc
ở một nơi xa lạ.
Cha tôi cùng với ba người Do thái di tản từ Bá Linh đã
mở đưọc một tiệm quần áo may sẳn cho phụ nữ. Đó là một cửa hiệu sang trọng, nằm cạnh
bên khách sạn Palace, cửa hàng rất phát đạt.
Các phụ nữ Thượng Hải rất thích các loại quần áo Tây phương
nầy, họ chưa từng thấy trước đó bao giờ.
Tôi cũng đưọc dịp sắm sửa từ cửa tiệm của cha. Quần áo tôi mang từ Bá Linh qua Aùi Nhĩ
Lan, rồi từ Aùi Nhĩ Lan qua Trung Hoa đã trở nên quá ngắn, quá chật.
Tôi không có bằng cấp, không học vấn, không có gì cả. Cha tôi gửi tôi đi học ở trường kinh
doanh Thượng Hải. Oâng nói: "Nếu
con đưọc học đánh máy, sẽ có ích cho con suốt đời". Đó là cái nhìn rất sâu rộng. Đến bây giờ, hằng ngày tôi vẫn còn ngồi
làm việc với chiếc bàn máy. Ngoài
ra tôi cũng học kế toán, tốc ký, nhờ đó, sau nầy tôi có thể kiếm sống
nuôi gia đình trong bao nhiêu năm.
Buổi chiều, sau giờ học, tôi đi chơi tennis. Trong một thời gian ngắn ở Thượng Hải,
tôi đã có thể sống tự do, yêu đời như thuở nào.
Vào tháng 12, 1941, chiến tranh bùng nổ ở Thái Bình Dương. Nhật chiếm Thượng Hải cũng như một số
nơi khác. Vào tháng 2, 1943, họ ra nghị
quyết: Người di tản Aâu châu -có
nghĩa là người Do thái- phải bị hạn
chế trong khu vực thành phố Hongkew; một khu ổ chuột, không có tường rào,
nhưng đầy dây kẽm gai, và phải chịu sự cai trị của lực lượng quân
sự Nhật bản. Đó là do áp lực của
chính phủ Đức. Nhật là đồng minh
của Đức, và đối với Đức quốc xã, Thượng Hải cũng như bao nhiêu chổ
khác, không phải là quá xa đển nổi họ không thể với tới, người Do
thái sống ở đó cũng không thể tránh khỏi sự trừng phạt của họ.
Đối với chúng tôi, điều đó có nghĩa là phải lại từ
bỏ nhà cửa, công việc kinh doanh. Cha
tôi lần nữa lại bị cướp mất đi cơ hội kiếm sống. Tôi tin rằng điều đó ảnh hưởng rất
lớn đến người. Vì giờ, cha tôi
không còn trẻ nữa.
Chúng tôi thuê hai phòng ở Hongkew, mang theo bàn ghế, thảm
và một ít các bộ ly pha lê. Cũng nhờ bán dần những thứ nầy mà
chúng tôi có thể nuôi sống mình.
Trong thời gian đó, tôi nghiệm thấy rằng dù trong hoàn cảnh
khắc nghiệt thế nào, cuộc sống vẫn tiếp tục. Trong khu ổ chuột của chúng tôi, với gần
mười tám ngàn dân từ các nơi như Đức, Czech, Hoà Lan, Aùo, và những nơi
mà Hitlet cai trị, đã mọc lên một cộng đồng có nhà thương, trường học,
nhà hát, các quán càphê Viennes, nơi bạn có thể mua bánh tart và nước táo. Chúng tôi cũng có báo chí, và các chương
trình xã hội phục vụ trẻ con và người già.
Con số trẻ em chết ở Hongkew vì môi trường thiếu vệ sinh,
không có sữa, lên rất cao.
Mổi sáng tôi rời khu ổ chuột, đến tối lại trở về. Tôi kiếm đưọc việc làm với một công
ty xuất khẩu. Tất cả tiền kiếm
đưọc tôi đều đưa cho cha. Chúng
tôi sống rất cần kiệm. Có một
quán cơm xã hội, chúng tôi có thể đến. Đồ
ăn nấu cũng đưọc, chỉ có điều các món không thay đổi: lúc nào cũng
là kasha súp, với ít rau củ lội trong đó.
Chúng tôi còn đưọc phát cho loại bánh mì mà người già
không thể nào ăn nổi vì nó cứng như đá.
Vào các ngày lể, chúng tôi mới dám mua khoảng hai mươi gram pâté
hay một lạng càphê. Chúng tôi phải
trả giá rất đắc cho những thứ nầy.
Cha tôi có một tấm bản đồ dán trên tường, trên đó
ông đánh dấu những bước tiến của quân đội Đồng Minh bằng những cây
kim nhỏ. Chúng tôi không đưọc có
radio. Nhưng đám con trai tự ráp radio
lấy, và dấu dưới nệm. Nhờ vậy,
chúng tôi đưọc biết quân Mỹ đã tiến đến đâu, và hy vọng là cơn
ác mộng sẽ sớm chấm dứt.
Một ngày kia bom nổ ở khu ổ chuột. Nghe một tiếng động lớn, tôi chạy ra
trước cửa nhà. Trước mắt tôi là
một người quen, anh ta như bị đất chôn vùi, rồi tiếp theo một tiếng nổ
lớn nữa, một cột đất, và người đàn ông biến mất. Lúc đó, lần đầu tiên trong đời, tôi hỏang
sợ đến mất cả tự chủ. Tôi cứ
hét lên, không thể ngừng đưọc cho đến khi cha tôi tát cho tôi một cái. "Chúng tôi không làm đưọc gì cả đâu,
hãy im ngay!", cha tôi quát.
Và tôi bình tĩnh trở lại.
Từ đó không bao giờ tôi hoảng loạn như thế cả -tánh cách
của tôi không giống như thế. Nhưng
những gì tôi đã chứng kiến thật quá sức chịu đựng của tôi. Tôi vừa đứng cạnh một người, rồi
ngay trước mắt tôi, anh biến ra thành những mảnh vụn. Anh là một nhạc sĩ trong các quán càphê
Do thái. Tôi vẫn thích nghe anh chơi nhạc.
Rất nhiều trái bom đã nổ trong ngày hôm ấy, rất nhiều
người bị giết. Con đường trước
cửa nhà tôi, máu chảy như nước mưa. Quân
đội Mỹ định đánh phá đài phát thanh của Nhật, nhưng bị chệch mục
tiêu.
Có lẻ từ kinh nghiệm đó, tôi trở nên không còn sợ
hãi sự chết nữa. Từ lúc đó, tôi
không còn lo sợ không biết mình sẽ sống hay chết. Người ta sống phút nầy, phút sau đã chết. Tôi đã biết điều đó rất sớm.
Vào tháng 8, 1945, trước khi trái bom nguyên tử nổ ở
Hiroshima, Nagasaki và chiến tranh chấm dứt, cha tôi bắt đầu bị đau vì những
điều kiện sống khốc liệt. Bác sỉ
chẩn đoán ông bị sỏi thận, và buộc phải giải phẩu. Vì thế cha tôi đi đến bịnh viện. Dỉ nhiên, mọi phương tiện trong bịnh viện
cũng chưa đưọc hoàn bị, nhưng chúng tôi ai cũng nghĩ là ông sẽ qua khỏi. Vào ngày dự định mổ thì cha hơi sốt
nhẹ. Cuộc giải phẩu phải đình lại. Hôm sau tôi vào thăm cha. Một vị bác sĩ đã gặp riêng tôi, nói:
"Cha cô sẽ không qua khỏi cuộc giải phẩu nầy đâu". Lúc ở trong bịnh viện, cha bị nhiễm
trùng não lây từ một người lính Nhật đã đưọc mang vào trong tình trạng
bịnh sắp chết. Không có thuốc chữa
cho bịnh nầy. Lúc đó chưa có những
thứ như penicillin.
Tôi vào phòng thăm cha. Oâng
đang nằm trên giường, có vẻ rất yếu. Có
lẻ cha biết mình sẽ không qua khỏi. Có
lẻ những người sắp chết đều biết. Cha
rất tỉnh táo. Tôi nói với cha:
"Cha ơi, con sẽ trở lại ngay. Con
sẽ đi kêu Mẹ". Nói rồi tôi chạy
như điên về nhà, nước mắt tuôn đầy trên mặt.
Khi trở lại bịnh viện, tôi cố đút cha ăn vài muổng
súp. Cha tôi đã không còn nuốt đưọc
nữa. Nhưng cha rất bình tĩnh. Cha nói: "Con biết cha thương con đến
dường nào!". Cha chúc tôi tất cả
mọi điều tốt đẹp nhất trong đời và nói sẽ tiếp tục lo lắng, bảo
vệ tôi.
Tôi hoàn toàn không thể chịu đựng nổi. Tôi không thể chấp nhận việc cha sắp
ra đi -chỉ vài ngày trước đây thôi, cha vẫn còn là người khỏe mạnh. Sự ra đi của cha là một mất mát thật
sự đối với tôi. Cái chết của nạn
nhân chiến tranh đã là một cú sốc, nhưng sau đó cha tôi vẫn đứng cạnh
tôi, để khuyên tôi bình tĩnh.
Đối với tôi, cha là điểm tựa của cuộc đời tôi. Tôi đứng bên ngoài nghe Mẹ nói lời từ
gĩa với cha. Một vài người bạn thân
cũng đến. Rồi cha nhắm mắt. Tôi không thể khóc nữa. Phải thật lâu sau, tôi mới có thể khóc
đưọc.
Năm ngày sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cha tôi đã mong đợi hoà bình biết bao
nhiêu, nhưng ông đã không còn sống để đón hoà bình.
Mẹ tôi như tê liệt, bà không còn làm gì đưọc nữa. Tôi phải lo tất cả, từ đám táng đến
ổn định lại cuộc đời chúng tôi. Quân
đội Mỹ tiến vào Thượng Hải. Những
người lính GI phát kẹo cho chúng tôi. Nhưng
ngay họ cũng không thể cho đưọc chúng tôi một căn hộ. Chúng tôi phải tiếp tục sống trong hai căn
phòng tồi tệ đó.
Hai năm trước đó, vì người Nhật, chúng tôi đã bị mất
cửa tiệm, và hầu hết tài sản. Tôi
cố gắng đòi lại phần nào, nhưng vô ích.
Tất cả đều đã mất.
Vài tháng sau, mẹ tôi lập gia đình với một người
bạn từ thời thơ ấu ở Bá Linh. Oâng
ta cũng sống trong khu ổ chuột nầy. Từ
đó trở đi, tôi hoàn toàn cô đơn, không cha, không mẹ -vì bà đã dành hết
mọi tình cảm cho cuộc hôn nhân mới. Tôi
không thể hiểu đưọc điều đó. Tôi
nghĩ là mẹ cần có thời gian để quên nổi đau mất chồng. Nhưng giờ tôi có thể nhìn sự việc dưới
khía cạnh khác. Mẹ tôi là người đàn
bà hiền hậu, nhưng bà rất yếu đuối, sợ hãi. Bà không thể tự lo cho cuộc sống của
mình, cũng như nhiều phụ nữ khác thuộc thế hệ của bà. Bà cần có ai đó để bảo vệ, che chở.
Tôi đã hai mươi hai tuổi, và trở nên khá xinh đẹp, nếu
tôi có thể nói thế từ những bức ảnh tôi còn giữ lại. Có thể bức ảnh cũng đã đưọc tôn tạo,
vì trong đó lông mi của tôi dài một cách giả tạo. Nhưng cũng có thể nói tôi là một thiếu
nữ khá xinh đẹp. Một ngày kia tôi gặp
một người đàn ông lớn hơn tôi mười bảy tuổi. Oâng cũng là người Do thái từ Đức đến;
tên ông ta là Johannes.
Có thể ông đã thay thế hình ảnh cha tôi trong lòng tôi. Bạn bè, người quen nói là ông không xứng
với tôi. Tôi không đồng ý -thế là
tôi lập gia đình với ông ta. Chúng
tôi dọn vào một căn hộ bé tí ở Hongkew.
Có điện, nhưng nước thì chỉ có ở phía sân sau nhà. Chúng tôi có một lò sưởi nhỏ để sưởi
ấm. Nhưng không bao giờ tôi đốt
đưọc lò sửơi, vì thế nhà tôi lúc nào cũng lạnh vào mùa đông.
Chồng tôi có phần hùn với người em họ ở một xưởng
may áo chemise, làm ăn cũng khá. Tôi
tìm đưọc việc, làm thư ký cho quân đội Mỹ đang đóng ở đây, đưọc
hai trăm đô một tháng. Đó là một số
tiền rất lớn ở Trung Hoa, có thể nuôi cả gia đình hai mươi nhân khẩu. Nghĩa là chúng tôi trở nên khá giả hơn. Tôi đưọc quyền mua sắm đồ ở PX, cửa
hàng chỉ dành cho nhân viên sở Mỹ. Có
rất nhiều thứ ở đó, thí dụ như kem đánh răng, sà-phòng thơm, kem bột. Tôi còn mướn đưọc một amma, bà vú
Trung Hoa. Tôi học đưọc ít tiếng Thượng
Hải từ bà, thứ tiếng địa phương mà người nơi khác không thể hiểu
đưọc. Khi tôi sanh Irene, con gái tôi
vào năm 1947, bà vú giúp tôi rất nhiều. Việc
nặng nề khó nhọc nhất là bà giúp tôi giặt bao nhiêu tả ở sân sau
nhà.
Hầu hết người Do thái sống trong các trại tập
trung ở đây đều muốn đưọc qua Mỹ. Người
Mỹ cũng chấp nhận chúng tôi, nhưng giấy tờ hành chánh thì quá nhiêu
khê. Các chuyến đi Mỹ phải đi cùng
với quân đội Mỹ trên các chiến hạm,
chúng tôi chờ đợi đến vô vọng. Mẹ
tôi và chồng bà đưọc đi trước cả chúng tôi.
Cuối cùng khi quân đội của Mao Trạch Đông tiến vào Thượng
Hải, lúc đó mới tới lượt chúng tôi. Chúng
tôi rời Thượng Hải trên chiến hạm cuối cùng vào năm 1949. Những ai không lên đưọc chuyến tàu đều
bị bắt lại. Như thế tôi vẫn còn
may mắn. Như tôi đã may mắn đưọc
lên chuyến tàu cuối cùng đưa trẻ con ra khỏi Đức vào năm 1939.
Các chiến hạm có thể chứa khỏang từ một ngàn rưỡi
đến một ngàn tám người, đàn ông đàn bà ở riêng. Chúng tôi gồm sáu người mẹ và sáu em
bé ở trong một cabin. Mấy đứa bé
như đã hợp đồng, không khóc cùng một lúc, mà cứ hết đứa nầy khóc
thì đến đứa kia. Chúng tôi hầu như
không thể chợp mắt đưọc.
Dầu gì chúng tôi cũng trên đường vượt Thái Bình Dương! Trên đường đến San Francisco! Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy
chiếc cầu Golden Gate, đẹp tuyệt vời qua lớp sương sớm. Trên bến, một ban nhạc đang chơi bài
hát nổi tiếng: "San Francisco, hãy mở cầu Golden Gate".
Lần nữa, một cuộc đời mới lại bắt đầu. Không biết đã bao nhiêu lần như thế rồi? Dần dần tôi học đứng trở dậy trên
đôi chân mình khi vấp ngã, giống như thằng người đồ chơi mổi lần bị
đấm ngã, lại chồi trở dậy. Giờ
tôi là một phụ nữ đã có chồng con, hai mươi sáu tuổi, vẫn chưa có giấy
tờ hợp pháp, nhưng đã có chút đỉnh tiền dể dành. Tuy nhiên tôi có cảm giác như cũng chưa
đưọc yên: còn cứ phải chống chọi với bao nghịch cảnh, và phải cắn
răng chịu đựng. Nhưng để làm gì
chứ?