-
- Từ ái, sinh lo lắng
- Từ ái, sinh sợ hãi
- Những ai đã lià xa ái
- Không lo lắng, không hãi sợ điều gì
- Kinh Pháp Cú -
212
Tôi
rất xúc động khi đọc những lời Đức Phật dạy trong câu Kinh Pháp Cú
trên. Nhưng khoảng thời gian mà tôi
viết lại ở đây, là khoảng thời gian tôi vẫn còn là một thiếu phụ
trẻ, còn chưa biết có những câu kinh như thế hiện hữu; mà dầu có biết,
có lẻ tôi cũng không thể hiểu đưọc ở thời điểm đó. "Những ai đã lìa xa ái" là nghĩa
gì? Ngày nay, tôi hiểu câu đó không
có nghĩa là ta không nên yêu thương ai. Chỉ
có nghĩa là ta đừng bám víu vào những gì ta yêu thích, nhất là người
ta thương, đến độ ta luôn nghĩ suy, lo lắng về họ. Ở thời điểm đó, tôi còn đắm trong vòng
luyến ái buộc ràng. Tôi luôn sống
trong trạng thái lo lắng. Cuộc
du hành của chúng tôi không có bảo hiểm hành lý, sức khỏe, vân vân như
ngày nay người ta du lịch với tất cả mọi thứ đều đưọc bảo hiểm.
Chuyến
đi của chúng tôi đầy bất trắc. Nhưng
ngay trong những phút giây nguy kịch nhất, trong những giây phút ở giữa sống
chết, tôi bỗng hiểu ra buông xả là gì. Có
nghĩa là không bám víu, không cố gắng để làm chủ, để quyết định mọi
việc gì có thể xảy ra. Có nghĩa là
dầu có ta hay không, người thân của ta, sở hữu của ta vẫn tồn tại -cũng
như ngược lại, tôi vẫn hiện hữu mà không cần có họ, không cần có
những thứ sở hưũ đó. Tuy nhiên phải
một thời gian lâu sau, ý niệm nầy mới thực sự thấm sâu vào nội tâm
tôi, lúc đó nó chỉ mới tượng hình trong tôi.
Giờ
trở lại với Quito, trạm dừng chân đầu tiên của chúng tôi ở Nam Mỹ. Ở Quito, chúng tôi có nghe về một bộ lạc
đưọc gọi là Los Colorados, có nghĩa là "Bộ Lạc Sắc Màu". Đó là một bộ lạc nhỏ ở Eucador, rất
nổi tiếng về cách trị bịnh bằng dược thảo. Bất chấp hiểm nguy, chúng tôi quyết phải
tìm gặp bộ lạc Sắc Màu. Vì thể,
dầu sợ hãi, chúng tôi vẫn một lần nữa, leo lên xe buýt đi về miền núi,
nơi người ta bảo là chúng tôi sẽ đưọc gặp những người trong bộ lạc
đi chợ ở một làng nhỏ trong vùng.
Chuyến
đi nầy còn tệ hại hơn chuyến vừa rồi.
Đường xá chật hẹp, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, lại vòng
vèo, bên thì đồi núi cheo leo, bên là vực thẳm hun hút. Bác tài thì lái bất cần, luôn quay lại
phía sau khi có tiếng trẻ con khóc, hay liếc nhìn lũ chim bay ngoài khung cửa. Phải mất ba tiếng rưỡi mới đến nơi. Tôi cứ thầm lo lắng, việc gì sẽ xảy
ra nếu có một chiếc xe chạy ngược chiều đến. Cảm ơn Trời, suốt chuyến đi đã không
có chuyện đó xảy ra.
Cuối
cùng chúng tôi đặt chân đến một thành phố nhỏ gọi là Ciudad de
Colorados, thành phố Colorados. Và đúng
như lời đồn, chúng tôi thấy ngay những "bộ quần áo" sặc sỡ
trong chợ. Họ không mặc gì phía
trên, kể cả phụ nữ, nhưng người
họ đầy những lằn sơn màu xanh. Họ
quấn quanh hông những chiếc củn, đàn ông củn ngắn, đàn bà thì dài hơn,
vẽ đầy những sọc màu xanh. Đầu họ
đội những chiếc mũ nhỏ, màu đỏ rực.
Chúng
tôi bắt chuyện với hai người trong nhóm họ.
Tôi hỏi người cao tuổi, nón họ làm bằng gì, tôi không thể
đóan đưọc vì màu sắc quá chói chang. "Nón
gì?", anh ta hỏi lại. Thì ra đó
là tóc họ. Và đó là màu sắc đặc
biệt của bộ lạc Màu Sắc. Họ
dùng một loại dâu có màu đỏ chà sát vào tóc cho đến khi nó trở nên dầy
cứng, sau đó vuốt tóc thành như những cái nón.
Đàn ông đã có gia đình thì chỉ để tóc như thế. Thanh niên thì buộc thêm những sợi dây vải
trên đó, để mọi người -nhất là phụ nữ- biết họ còn chưa có ai.
Tôi
hỏi thêm bao lâu thì họ phải làm những kiểu đầu như thế. Chỉ nữa năm họ mới phải làm một lần,
cũng thực dụng đó chứ. Chúng tôi
chụp hình họ với Jeff. Sau đó, họ
mời chúng tôi theo về bộ lạc. Chúng
tôi đi trên những chiếc xe ngựa nhỏ. Đường
xá hơi dằng xóc, nhưng cũng còn dể chịu hơn đi trên xe buýt.
Bộ
lạc Màu Sắc là một bộ tộc da đỏ sắp bị diệt chủng. Lúc đó, chỉ còn khoảng năm trăm người,
tất cả sống trong ngôi làng nầy và vùng lân cận. Họ hái những thứ cây lá họ đã quen
dùng từ thuở xa xưa để làm thuốc. Những
người trẻ tuổi thì bỏ về sống ở thành thị. Họ không muốn trở thành các thầy thuốc
lá cây như tổ tiên họ, nhưng muốn trở thành các bác sĩ tân tiến ở
thành thị. Họ muốn làm ra tiền, và
cũng không muốn phải đội cái đầu đỏ, với dây nhợ luồm thuồm đi
khắp nơi.
Chúng
tôi đưọc dân trong bộ lạc tiếp đãi rất tủ tế. Họ sống trong những căn nhà sàn làm bằng
cây gổ rất đẹp. Khỏang trống
phía dưới nhà, treo đầy các loại dị thảo.
Họ có tên gọi cho mổi loại, nhưng vì bất đồng ngôn ngữ,
nên chúng tôi cũng không học hỏi đưọc gì từ những kiến thức kỳ bí
của họ về các loài cây. Có lẻ
ngày nay các kiến thức đó cũng đã mai một. Vì người trưởng lảo nói
với chúng tôi, thanh niên trai trẻ bây giờ muốn thay đổi cách sống. Họ mặc quần jeans - lúc đó đang rất hiềm,
chứ không phải là những chiếc váy có sọc xanh của bộ lạc Màu Sắc. Mua đưọc một chiếc quần jeans, người
ta có thể mua hết nửa ngôi làng.
Họ
mời chúng tôi dùng bữa. Trước mặt
chúng tôi là đủ loại trái cây bắt mắt.
Những quả đu đủ, bên trong có màu đỏ như máu, mà tôi chưa
bao giờ thấy. Rồi còn có loại chuối
đỏ và cơm hấp với rau cải. Họ nuôi gà để ăn trứng. Chỉ đến khi gà thật già, mới bị làm
thịt. Bộ lạc Màu Sắc không sống
nhờ vào săn bắn. Đây là một bộ lạc
nhỏ bé hiền hòa.
Lần
viếng thăm đó để lại nhiều ấn tượng sâu xa đối với tôi. Tôi như còn thấy trước mắt tôi người
đàn bà ngồi nướng chuối cho chúng tôi bên lò than hồng. Giờ nầy họ đã ra sao rồi? Thật là buốn khi nghĩ đến những thay đổi
dân tộc họ phải trãi qua. Có lẻ
ngôi làng nhỏ với những dảy nhà sàn sẽ không còn nữa. Có lẻ không còn ai đi hái những lá cây
về làm thuốc nữa.
Từ
Quito, chúng tôi đáp máy bay để đến một địa danh khác, Lima. Tôi không thể nào có can đảm tiếp tục
cuộc hành trình trên một chuyến xe buýt nữa.
Dầu phải hết sức tiết kiệm, nhưng mặc, tôi cần phải lấy
lại sức, tôi cần phải đưọc ngồi trên máy bay một lần nữa.
Đến
Lima, chúng tôi thuê phòng ở một khách sạn rẻ tiền, vì chổ ở của
chúng tôi trên xe jeep, đã không còn nữa, chúng tôi đã bỏ nó lại ở
Panama. Trong những tuần sau đó,
tôi bắt gặp mình hay nhớ về chiếc xe jeep đó, chúng tôi đã ngủ bao đêm
êm ấm trên đó, nó đã gan lì chở chúng tôi qua bao con sông. Nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trải
qua chỉ là chuyện nhỏ so với những gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía
trước.
Từ
Lima, chúng tôi muốn đi đến vùng Amazon. Muốn
vậy, chúng tôi lại phải lấy xe buýt để đến Andes. Khi chúng tôi trèo lên chiếc xe lung lay -như
đưọc buộc lại với nhau bằng những sợi dây thung- chúng tôi ngạc
nhiên khi thấy tất cả các hành khách người bản xứ ai cũng mang theo nhiều
lát chanh, mà chốc chốc họ lại lấy ra bỏ vào miệng ngậm. Lúc mà chúng tôi hiểu đưọc gía trị của
những miếng chanh đó thì đã quá trể.
Chiếc
xe buýt đã gầm rú leo lên đồi ở độ cao 4.700 mét. Ở độ cao đó, bạn sẽ bị say sóng: đó
là, bạn bắt đầu thấy nhức đầu, muốn ói.
Dân bản xứ đã biết ăn chanh sẽ chặn đưọc những triệu
chứng đó không xảy ra. Chúng tôi cũng
mua lại đưọc một ít chanh, nhưng đến lúc đó thì chúng tôi đã quá say
sóng, có chanh cũng không ích lợi gì.
Tất
cả hành khách đều mệt lử khi xe lên đến đỉnh cao nhất. Bác tài quyết định dừng lại cho chúng
tôi nghỉ vài phút. Dân bản xứ bày
gà và bánh mì ra ăn. Sau đó, chúng
tôi xuống núi đến Pucallpa. Trên bản
đồ, Pucallpa là một thành phố, nhưng đến nơi, đó chỉ là một ngôi
làng nghèo, đông dân bên dòng sông Ucayali. Ucayali
chảy ra nhập vào với sông Maranon để tạo thành vùng tam giác Amazon.
Chúng
tôi muốn đi dọc theo dòng sông, xuống đến Amazon. Có một chuyến tàu chạy bằng hơi xuôi
dòng xuống đó trong thời gian một tuần. Đó
là chiếc tàu có những bánh lái quay, chiếc tàu duy nhất còn xuôi ngược
trên dòng Ucayali. Tàu chạy bằng than
đốt, và một bánh lái to bằng gổ quay chậm chạp. Chúng tôi đặt một phòng trên chiếc tàu
cổ xưa nầy.
Cuộc
hành trình trên sông không hoàn toàn êm ái.
Tàu phải cập bờ mổi ngày để lấy thêm than. Trên tàu có một phòng tắm cho khách, nhưng
không xử dụng đưọc vì người ta nhốt các chú ruà trong đó, để mổi
ngày luộc một con làm bửa ăn cho khách. Các
chú ruà cần nước, vì thế chúng chiếm đóng phòng tắm. Ngoài thịt rùa, những thức ăn đưọc dọn
lên cho chúng tôi mổi ngày là những món dở nhất mà tôi đưọc nếm qua. Cảm ơn Trời là chúng tôi có mang theo ít
thức ăn, và có chuối là khá ngon.
Nhưng
có lẻ cái khổ nhất vẫn là nước. Người
đầu bếp múc nước từ dưới sông Ucayali lên nầu, từ con sông mà dân
ở hai bên bờ và trên các chiếc tàu vẫn phóng uế xuống đó. Chúng tôi phải nấu trà bằng nước đó. Vì thế Jeffrey bị bịnh gấn chết. Cũng may tôi có mang theo ít thuốc trụ
sinh. Không có thuốc, chắc là cháu đã
chết. Kể từ đó, chúng tôi không
dám uống ngụm trà nào mà không bỏ vào bình trà ít viên thuốc tẩy trùng, mà tôi đã mang theo
trong túi thuốc du lịch của mình.
Một
lần khi Gerd sắp xuống sông tắm. Mọi
người la lên: "Piranhas, Piranhas!" Đó
là những con cá nhỏ với những chiếc răng bén như lưỡi dao lam, thường
đi từng đoàn cả trăm con một lúc. Kẻ
nào không may gặp chúng thì sẽ trở thành bộ xương chỉ trong vài phút
sau. May ma Gerd đã nhanh chân trèo dây
trở lên thuyền.
Khi
tàu vào lấy than, chúng tôi cũng lên bờ, ngắm những ngôi làng nghèo nàn
ở quanh đó. Sự nghèo khổ không thể
diển tả đưọc trùm phủ khắp nơi nầy. Trái
ngược với cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời ở đây. Bạn chỉ nhìn thấy sự dơ dáy bẩn thỉu,
bịnh hoạn và suy dinh dưỡng.
Rồi
một buổi sáng kia, cánh quay của tàu bị mắc cạn trong cát. Chúng tôi vừa qua khỏi chổ giáp của hai
con sông Maranon và Uyacali để tạo thành vùng Amazon. Lý do vì lão thuyền trưởng say rượu,
như mọi ngày, nên mới ra cớ sự.
Lúc
đó có cá Piranhas hay không, mọi người đều phải nhảy xuống nước để
đẩy tàu ra khỏi chổ mắc cạn. Nhưng
hoài công. Tai nạn của chúng tôi đưọc
loan truyền nhanh chóng đến dân ngụ cư dọc theo hai bên bờ sông như pháo
nổ. Những chiếc ghe thuyền nhỏ bắt
đầu đổ ra từ mọi phía. Hành
khách, sau khi thấy không còn hy vọng gì, bèn lần lượt trèo lên những
chiếc ghe nhỏ nầy. Họ không cần biết
sẽ đưọc chở tới đâu, miễn là ra khỏi nơi nầy.
Chúng
tôi hơi do dự, nhưng rồi sau cũng phải trèo lên một chiếc ghe nhỏ tí
teo, và đưọc chèo đến một làng không có tên trên bản đồ gọi là
Orellana. Cuối cùng chúng tôi phải ở
lại làng Orellana, trong khu vực Amazon, đến bốn tuần. Tôi đã viết một bài báo về biến cố
nầy cho một tờ báo Mỹ, kèm theo các bức ảnh trong đó tôi thường mặc
cái váy Mễ, với áo trắng. Vì ngoài
cái quần nhung đen, đó là tất cả quần áo tôi có. Tôi cứ phải luôn giặt giủ chúng, vì
không có cách gì tôi có thể mang thêm quần áo trong cái túi đeo lưng nhỏ. Bài báo đưọc đăng dưới tựa đề:
"Trăng trên dòng Ucayali".
Không
thể gọi Orellana là một thị xã với vỏn vẹn khỏang hai mươi nhà và một
nhà thờ. Chỉ có hai người đàn ông
có quyền hành ở đây: đó là nhà truyền giáo người Tây Ban Nha và ông
chủ hảng máy cưa gỗ. Oâng chủ
hãng máy cưa rất giàu; ông có cả xe hơi. Oâng
nói với chúng tôi ông là người Do thái và con trai ông đang du học ở
Glasgow. Oâng ta có thể nói đưọc tiếng
Anh. Thật là một cuộc gặp gở hy hữu
ở góc trời xa vắng nầy.
Ở
Orellana không có nhà trọ để lữ khách ở qua đêm, nên ông chủ máy cưa
phải dọn dẹp một nhà kho trống thành chổ ở cho chúng tôi. Oâng còn cho chúng tôi muốn xài bao nhiêu
gổ tùy ý. Gerd biến những miếng
ván thành một chiếc giường ngủ. Nhờ
mấy cái túi ngủ, chúng tôi trải lên giường thành một chổ nằm êm ái. Vì nhà chứa không có cửa sổ, nên lúc
nào chúng tôi cũng phải để cửa cái mở toang.
Hẳn là người ta đồn nhau có mấy người ngoại quốc sống
ở đây. Nên lũ trẻ trong làng -tôi
nghĩ có lẻ là khỏang bốn mươi tất cả-
kéo đến đứng suốt ngày ở cửa để xem chúng tôi làm gì. Điều đó không dể chịu chút nào; chúng
tôi hoàn toàn không có chút riêng tư gì.
Sau
chúng tôi khám phá ra có một tiệm ăn ở Orellana nấu ăn cũng tạm đưọc. Nên chúng tôi đều đến đó mổi ngày để
ăn cá -phải có gì bỏ vào bụng thôi. Cá
ở đây vừa đưọc bắt lên từ sông nên rất tươi, rất ngon. Chúng tôi cũng đưọc quen với vị truyền
giáo. Oâng hay dẩn chúng tôi vào các
khu rừng tìm những con bướm to mà tôi chưa thấy ở nơi nào khác. Cánh của chúng có đến nửa thước, với
nhiều màu sắc rực rỡ. Ở đó cũng
có rắn đủ loại -nhỏ, to, đủ màu sắc.
Dỉ nhiên là chúng tôi không bao giờ dám đến gần chúng.
Vị
truyền giáo còn nói cho chúng tôi biết là đi sâu hơn nữa vào rừng có những
bộ lạc chuyên săn đầu người. Cứ
một vài năm họ lại đi gây chiến với các bộ lạc khác, rồi cắt đầu
những kẻ bại trận, đem phơi khô. Khi
thấy tôi kinh hãi quá, ông vội trấn an rằng nhưng cũng phải còn lâu lắm
họ mới trở lại, vì họ vừa kết thúc một cuộc gây chiến gần đây. Có lẻ ông chỉ nói vậy để xoa dịu nỗi
sợ hãi của tôi thôi.
Sau
đó, chúng tôi lại thấy các đầu người phơi khô bày bán trong các tiệm
bán đồ lưu niệm ở các thành phố ở Amazon.
Chúng nhỏ bằng kích cở một trái táo, nhưng mặt người thật
có mắt, có tóc. Và bán với giá cắt
cổ. Những thứ đó thì chẳng bao giờ
chúng tôi đụng tới.
Mổi
ngày đều có tin là chuyến tàu của chúng tôi lại bắt đầu xuôi dòng xuống
cuối nguồn sông. Nhưng điều đó đã
chẳng bao giờ xảy ra. Rồi lại có
tin một chiếc tàu lớn sẽ đến giúp chúng tôi.
Chiếc tàu đó có đến thực, nhưng nó chẳng dừng lại cho
chúng tôi lên. Cuối cùng chúng tôi biết
là nếu cứ chờ đợi, chúng tôi sẽ không đi đến đâu cả. Phải tự lo cho mình thôi.
Chúng
tôi đành phải mướn một chiếc thuyền nhỏ, bằng cây, chạy bằng motor,
phiá trên có che mái tôn. Ít nhất
chúng tôi có thể ngồi trốn cái nắng chết người ở dưới mái tôn đó. Chúng tôi dự định đến Iquitos, là một
thành phố lớn gần đây, dọc theo bờ sông.
Amazon
không phải là một con sông hiền hòa, êm ái.
Mổi lần phải lướt qua những con sóng cao trong chiếc thuyền
làm bằng thân cây nầy là tôi không thể không thấy lo sợ. Tôi lo sợ nhất là cho Jeff. Cũng may là cậu bé chỉ mãi chơi đùa, vọc
nước tìm cá. Không giống như tôi, cậu
bé tận hưởng thú vui trên sông nước.
Mổi
khi chiều đến, chúng tôi phải lên bờ để ngủ, vì thuyền nhỏ quá. Lúc nào cũng giống nhau: phải kéo thuyền
lên bờ, sợ nó trôi dạt theo sóng; vào sâu trong đất liền xa đám bùn
ở bến sông; rồi đốt lửa để vừa sưởi ấm vừa đuổi những con muổi
to bằng con ruồi, lại là nguồn gây bịnh dịch.
Lúc
nào cũng có các loại cây trôi dạt tấp vào bờ quanh đó để chúng tôi
dùng đốt lửa. Và người chủ tàu rất
giỏi dắn -anh ta có thể nhóm lửa cả với các thứ ẩm ướt đó. Khi nào còn lửa, thì muổi còn tránh ra
xa. Nhưng lúc chúng tôi gục ngủ, lửa
lại tàn, thì đó là lúc chúng bắt đầu tấn công. Vì thế không phải là chúng tôi đưọc yên
ổn vào ban đêm.
Ban
ngày, chúng tôi thường phải ngừng đâu đó để mua đồ ăn. Đó cũng là một vấn đề, vì người dân
quanh đó còn không có gì để ăn. Họ
cũng muốn lấy đưọc tiền của chúng tôi lắm, nhưng thường họ không
có gì để bán. Chỉ vài trái chuối
hay đu đủ. Một lần duy nhất chúng
tôi gặp đưọc một lò nướng bánh mì thực sự có bánh mì. Nhưng không hiểu sao, chúng tôi cũng chưa
bị đói bao giờ.
Sau
một tuần, chúng tôi đặt chân đến Iquitos.
Điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi khi vừa chui ra khỏi
thuyền là một người đàn ông đang dắt dây một con vật gì đó. Một con vật chúng tôi chưa thấy bao giờ,
có lông xù, và mũi dài quắm. Thực
ra nó giống như một con chuột xù, mà sau nầy tra cứu tự điển bách
khoa, tôi biết chúng thường sống ở các vùng nhiệt đới của Nam Mỹ.
Nhiệt
đới cũng không phải là từ chính xác đễ diễn tả cái nóng như điên dại
ở Iquitos. Chúng tôi trả tiền người
chủ thuyền, rồi lê mình, cùng đồ đạc đến một khách sạn nhỏ, rẻ
tiền có tên là khách sạn Peru. "Hãy
nhìn kià", tôi nói với Jeff khi lần đầu tiên sau bốn tuần lể,
chúng tôi mới đặt chân đến một nơi có những điều kiện khá văn
minh, "khách sạn nầy mang tên xứ sở chúng ta vừa đặt chân đến đấy".
Nhưng
trước khi đi tìm nhà hàng để ăn, chúng tôi chạy ngay đến bưu điện để
gửi cho mẹ tôi và Irene một cái telegram. Họ
đã bặt tin chúng tôi quá lâu rồi, chắc là họ cũng đang rất lo âu. Đó là một bưu điện rất cổ xưa với
các quầy tiếp khách bằng gổ rất cao, làm một người không cao lắm như
tôi phải vất vả lắm mới với tới đưọc.
Khi
tôi quay lại, thì Jeff biến đâu mất. Gerd
ở phòng bên đang gửi mấy cái thư chúng tôi đã viết từ lâu, cũng không
thấy cậu bé. Ngoài hành lang của bưu
điện cũng không có bóng cậu bé. Nó
đã biến mất như thể đã chun trồn xuống đất.
Những
giờ sau đó là một cơn ác mộng dài đối với chúng tôi. Chúng tôi chạy khắp phố trong cái nóng
không tưởng đưọc, hỏi thăm tất cả mọi người có ai thấy một cậu
bé người châu Aâu. Không có ai thấy
cả. Tất cả mọi con đường ở
Iquitos đều tận cùng bằng bìa rừng như thể đó là bức tường bao bọc,
nhưng ở phía sau bìa rừng là rắn rít và những con thú hoang dại khác.
Tôi
gần như sắp ngã gục vì sợ hãi. Gerd
chạy báo cảnh sát rằng chúng tôi đã lạc con.
Người cảnh sát hỏi: "Bao nhiêu tuổi?", "Năm tuổi",
Gerd trã lời. Viên cảnh sát nói, vừa
cạo ghét ở móng tay, "Không, tôi hỏi anh, anh bao nhiêu tuổi?" Quá chán nản, chúng tôi bỏ mặc viên cảnh
sát ngồi đó, chạy trở lại khách sạn. Và
kià Jeffrey đang ngồi trên ghế sofa trong phòng tiếp tân của khách sạn. Cậu bé hỏi chúng tôi đầy trách móc:
"Mẹ, hai người biến đâu mất từ nãy giờ?" Cậu bé đã ngồi đó gần bốn tiếng đồng
hồ, mà cũng không nói với nhân viên khách sạn rằng đã lạc cha mẹ. Thì ra khi không thể tìm đưọc chúng tôi
ở bưu điện, cậu bé đã nhờ người qua đường dẩn đển khách sạn
có tên giống như xứ chúng tôi đang có mặt.
Giờ
nhắc đến chuyện đó, Jeff không còn nhớ gì, nhưng tôi, thì tôi vẫn nhớ
như in từng giây phút đó. "Do ái
sinh lo lắng, do ái sinh sợ hãi". Tôi
nghĩ là từ ngày đó, những lời Phật dạy đã có trong tôi -nhưng do vô
minh mà không nhận ra.
Chúng
tôi ở lại iquitos lâu hơn dự định. Một
người thợ hớt tóc, vừa là thợ nhồi các con thú, đã hớt tóc cho Gerd. Trong 'xưởng' của anh ta có một con rắn
còn sống, mà anh ta rất hảnh diện đem khoe với Gerd. Anh ta nói, khi nào có thì giờ anh ta sẽ
làm thịt nó, rồi nhồi xác.
Đây
là một loại rắn lớn nhất Nam Mỹ, đưọc gọi là anaconda. Có con dài đến sáu thước, thân to đến
khỏang hơn nửa thước. Có màu da rất
đẹp Trên lưng màu xanh nhạt và đen,
hai bên sườn lốm đốm những chấm vàng đậm lợt. Gerd cảm thấy xót xa cho con vật. Nhưng rồi anh nghĩ, nếu nó không chỉ ăn
các sinh vật nhỏ bé, mà còn ăn cả thịt người thì sao. Nhưng đối với người thợ hớt tóc thì
không có gì phải nghĩ ngợi về con rắn nầy cả.
Từ
Iquitos, chúng tôi bay trở về Lima. Đáng
lý ra chúng tôi cũng có thể lên tàu khác đi tiếp -chuyến đi dự định
trong hai tuần lể- nhưng sau kinh nghiệm ờ vùng Amazon, chúng tôi không có
can đảm tiếp tục cuộc hành trình. Ai
biết rồi chiếc tàu chạy bằng hơi nầy sẽ lại bị mắc cạn ở đâu nữa?
Từ
Lima, chúng tôi lại bay sang La Paz ở Bolivia, rồi từ đó qua Brazil, chứ
không dừng lại ở Argentina. Ở
Brazil, tôi có một ít bà con, nên ghé qua thăm họ. Họ quá đổi kinh ngạc khi gặp lại tôi,
vì họ tưởng tôi đã chết ở Đức hồi ấy.
Ở
Brazil, người ta nói tiếng Portuguese. Từ
lâu, tôi vẫn tưởng tiếng Portuguese và tiếng Tây Ban Nha, không mấy khác
biệt đến nỗi có thể gây khó khăn cho chúng tôi. Nhưng giờ tôi mới thấy mình hoàn toàn
không hiểu một chữ tiếng Portuguese, mà cũng không có ai biết nói tiếng
Anh. Tình thế cũng khá gay go. Nhưng dầu gì chúng tôi cũng đã ở Rio,
và muốn đi thăm Sugarloaf. Ở bãi biển
Copacabana, chúng tôi mua cho Jeff một con diều thật to, chú bé thích chí cầm
diều chạy qua chạy lại trên bãi biển. Từ
đó chúng tôi đi qua Sao Paulo, định là
sau đó sẽ đến Brasilia. Đó là thủ
đô mới của Brazil, vừa tạo lập xong từ một khu rừng già, hứa hẹn
có nhiều điều đáng xem.
Nhưng
trước khi đi, chúng tôi ghé qua Đại sứ quán Mỹ để nhận thư. Ở đó, người ta khuyên chúng tôi nên trở
về càng sớm càng tốt vì một cuộc cách mạng vừa nổ ra ở Brazil. Nhưng vì không rành ngôn ngữ, chúng tôi
không hề biết điều đó. Vì thế
sau đó, chúng tôi tiếp tục bay trở lại Panama, nơi chúng tôi đã bỏ chiếc
xe jeep lại.
Chỗ
dừng chân kế tiếp của chúng tôi là Uùc.
Trước đó khá lâu, chúng tôi đã mua vé cho cuộc hành trình
trên chuyến tàu Pacific & Orient Line (Thái Bình Dương & Đông Dương). Lúc ấy, chính phủ Uùc cũng muốn tạo mọi
dể dải cho khách du lịch, vì họ muốn chiêu dụ người di dân đến xứ
họ, nên đã trả mọi chi phí cho chuyến đi, kể cả tiền chuyên chở xe
cho chúng tôi. Tôi chỉ phải trả
thêm có mười pounds (tiền Anh). Đó
là tình trạng lúc bấy giờ, vì bao nhiêu nhân mạng đã mất đi trong thế
chiến thứ II. Hiện nay thì rất khó
cho người di dân đến đưọc Uùc, Aâu châu hay Mỹ.
Tôi
có thật sự muốn sống ở Uùc không? Lúc
đó, tôi nghĩ tại sao không. Nơi nào
lại không thể là nhà. Vậy thì
không có lý do gì để không đến Uùc? Thật
ra, chúng tôi cũng đã dự tính mua một nông trại nào đó, ở một nơi nào
đó, để có thể sống tự túc ở vùng quê.
Chuyến
đi thật tuyệt vời. Tôi lên năm kí
lô vì ăn quá nhiều. Trên tàu thì đủ
cả: hồ bơi, phòng giải trí, phòng đọc sách, nhà hát -mọi tiện nghi mà
bạn có thể nghĩ ra. Dỉ nhiên là
chúng tôi chỉ đặt chổ khách du lịch bình thường, nhưng sau những tuần
lể gian khổ vừa trải qua, chúng tôi có cảm giác như mình đang sống một
cuộc sống của tầng lớp thượng lưu. Có
lúc tàu dừng lại ở Tahiti hai ngày. Thật
là một chổ tuyệt vời trên mặt đất mà tôi đưọc đặt chân đến. Ở mổi góc đường, đều có những người
lịch sự, đẹp đẻ, đeo vòng hoa, chơi nhạc guitar. Không khí thóang mát, sạch sẻ. Tôi nghĩ là thiên đàng cũng chỉ đến
như thế nầy. Tôi nghĩ đến họa sĩ
Gauguin, người đã tìm kiếm và gặp đưọc thiên đàng ở đây. Dầu vậy, ông đã không tìm đưọc hạnh
phúc trong cuộc đời.
Tôi
cũng mong đưọc ở lại Tahiti, nhưng chắc không đưọc rồi. Vì đảo Tahiti là thuộc địa của Pháp,
mà người Pháp không sẳn lòng mở cửa đón khách như người Uùc.
Bến
đổ kế tiếp là Auckland ở Tân Tây Lan. Vì
người ta báo cho chúng tôi là tàu phải đưọc tu sửa vài ngày, chúng tôi
quyết định mướn xe đi tiếp. Như
thế cũng là dịp để chúng tôi thăm viếng Tân Tây Lan. Chúng tôi đi qua đảo South Sea (Biển Nam)
xanh rờn, phần lớn người dân ở đây là dân da trắng, rất hiếu khách,
thẳng thắng và rất gắn bó với mảnh đất họ đang sinh sống. Người ta nói ba triệu dân ở đây đưọc
nuôi sống nhờ vào da của ba mươi triệu con cừu.
Chúng
tôi cũng viếng trại định cư Maoris của bộ lạc da đỏ ở TÂN TÂY LAN. Họ cũng đưọc đối xử như những người
da trắng ở đây, mà không hề bị một sự áp bức nào. Có lẻ nhờ thế mà không khí ở TÂN TÂY
LAN đầy bình yên. Trên mổi nhà đều
đưọc trang hoàng bằng những nét chạm trổ, và những điệu nhảy dân tộc
tưng bừng khắp nơi.
Nhưng
có lẻ nét quyến rủ nhất của Tân Tây Lan là các hồ. Nước hồ khi xanh dương, lúc xanh lục,
hay đen tùy theo đặc tính của vùng đất. Có
rất nhiều suối nước nóng, tỏa hơi trên mặt nước. Nổi tiếng nhất là những suối nước nóng
chữa bịnh đưọc ở Roturua, mở cửa cho mọi người. Gần như không có nơi nào ở Tân Tây Lan
không có hơi nước. Gần như tất cả
các khách sạn đều có những con suối riêng.
Nước từ các con suối nầy đôi khi rất nóng, đến độ người
ta phải làm các hàng rào để du khách không đến gần, có thể bị phỏng. Nhiều nơi nước và hơi nước phún lên
cao như những ngọn núi lữa. Thời xa
xưa, dân Maoris dùng các loại nước nầy để nấu ăn.
Đến
Wellington, chúng tôi bắt kịp tàu. Lần
nầy khi đặt chân đến Sydney, chúng tôi có đủ cả hành lý, và cả chiếc
xe jeep cũng đưọc chuyển đến. Ngay
lập tức tôi đã cảm thấy an ổn ở lục địa mới nầy, vì chúng tôi
có đủ mọi trang bị. Giờ tôi không
còn phải mổi ngày giặt áo quần để có mặc cho ngày hôm sau.
Ban
đầu chúng tôi đưọc ăn ở miễn phí trong một trại tập trung. Thật là một sự tiếp đón nồng hậu. Nhưng chúng tôi đâu có muốn ở lại
Sydney, mà muốn tìm một vùng quê nào đó. Vì
thế chúng tôi lại lên xe jeep, cũng là nhà của chúng tôi, để tiếp tục
đi sâu vào Uùc châu. Chúng tôi lái dọc
theo bãi biển về hướng đông với những bãi biển trắng xoá tuyết,
không bóng người. Sau đó chúng tôi
đi về phiá tây trong đất liền. Đây
là vùng đất sa mạc. Không có bóng
người, thỉnh thoảng chỉ thấy vài con thú hoang. Có lần chúng tôi đụng độ với cả một
bầy ngựa hoang. Ngoài ra thỉnh thoảng
cũng có vài con kangaroos, những lũ két có lông màu sắc rực rỡ.
Đó
là vào tháng mười một. Và tháng nầy
ở Uùc nóng như thiêu đốt. Sau ba tuần
ở trong cái nóng đó, tôi hết chịu đựng nổi.
Cuối cùng, chúng tôi dừng chân tạm nghỉ vài ngày ở gần suối
Alice, trong một phòng trọ có máy lạnh. Ai
biết về Uùc châu, cũng biết đó là một cuộc hành trình đấy gian nan. Cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng, vì
nước và gas không phải dể dàng có.
Chúng
tôi bắt đầu tìm kiếm một 'chổ ở' trong xứ sở rộng lớn đó. Có nơi, một miếng đất, có thể lớn bằng
cả tiểu bang Texas. Trẻ con đưọc giáo
dục qua phương tiện truyền thanh. Chúng
tôi lái xe vào một trại tập trung của người dân tộc, những người dân
chính gốc của Uùc. Họ sống hai cuộc
đời, nửa theo những phong tục cổ truyền của họ, nửa theo những quy luật
của người da trắng tại đây. Nhiều
người kiếm sống bằng cách bán đồ lưu niệm cho du khách: những đồ chạm
trổ bằng tay, các hình tượng. Chúng
tôi mua giúp họ, mổi thứ giá hai 'bob', khoảng bằng hai shilling, dù rằng
trị gía tiền tệ đó, không còn hiện hữu.
Chúng
tôi lại lên xe xuyên qua xa lộ Stuart từ Darwin, thành phố tận cùng ở
phía bắc, đến Adelaide. Khi trở về
đến Sydney, chúng tôi đã chọn đưọc địa điểm để định cư. Vùng đất chúng tôi thích nhất là ở miền
nam của Queensland, khỏang một giờ lái xe từ bắc thủ đô Brisbane, trong
vùng Nambour. Lúc đó, nơi nầy chỉ là
một thành phố nhỏ, giờ đã phát triển thành một thành phố lớn. Đây là nơi chúng tôi muốn tìm mua một
nông trại.
Nhưng
mọi việc đã xảy ra không như dự định, cũng như tất cả những biến
cố xảy ra trong đời tôi.