- Được sinh làm người là khó,
- Đưọc sống càng khó hơn;
- Đưọc nghe Chánh pháp là khó,
- Đưọc gặp Phật ra đời càng khó hơn.
- Kinh Pháp Cú -
182
Tôi
đã quay trở lại quãng đời quá khứ để tả cho độc giả những đoạn
đường khúc khủy tôi đã đi qua, trước khi tìm đưọc con đường đạo.
Trước
khi biết đến Phật giáo, tôi đã đi tìm con đường trong chính tôn giáo của
mình. Tôi đã sinh ra là người Do Thái,
nên dù không đưọc giáo huấn trong ý nghĩa của một tôn giáo chính thống,
tôi vẫn có những mối liên hệ với Do Thái, với tín ngưỡng Do Thái.
Khi
bạn sinh ra làm người Do Thái, bạn không thể chối bỏ nguồn gốc Do
Thái của mình. Tôi nghĩ điều đó
không liên quan gì đến tín ngưỡng. Đó
chỉ là một cảm giác về chủng tộc. Theo
bản năng, khi tiếp chuyện với ai, tôi có thể đoán biết người đó có
phải là người Do Thái không. Có một 'cung cách' tiêu biểu nào đó khiến
người ta dể nhận biết nhau.
Năm
Jeff đưọc mười ba tuổi, tôi đem con đến gặp thầy rabbi (thầy trong đạo
Do Thái). Ở tuổi đó, con trai làm lể
Bar Mitzvah, để bước vào tuổi trưởng thành.
Gerd, chồng tôi đã lớn lên trong truyền thống Do Thái, tự giới
thiệu mình bằng tên trong đạo Do Thái. Tôi
hoàn toàn không biết mình có tên Do Thái hay không. Thầy Rabbi nhìn tôi rất lâu, hỏi: "Vậy
cô không phải là người Do Thái sao?"
Gerd
trã lời: "Dĩ nhiên cô ấy là người Do Thái rồi. Chỉ có điều cô ấy không đưọc giáo dục
về điều đó". Rồi họ nhanh
chóng tìm cho tôi một cái tên. Tôi
hoàn toàn không có hiểu biết gì về vấn đề nầy.
Sau
đó tôi bỏ một khỏang thời gian tìm tòi, học hỏi về những kiến thức
tôi đã thiếu sót. Tôi đã đọc rất
nhiều sách, thí dụ như Zohar và những sách khác về Kabbalah. Nhưng tôi không hiểu gì nhiều. Hình như họ ở một cung bậc mà tôi
không với tới. Rồi khi chúng tôi về
sống ở Shalom, tôi đưọc biết về một tổ chức quốc tế, có tên là
Chabad dạy về Thần Bí (Hasidism) trong đạo Do Thái. Trụ sở của họ đưọc đặt ở Sydney,
Uùc. Tôi đã đến tìm vị thầy phụ
trách ở đó. Oâng là một giáo sư toán ở đại học
Sydney, có vợ và sáu con. Mổi tối
ông đều giảng kinh sách tại nhà riêng.
Tôi
đã đến nghe ông, và hiểu rằng để có thể bước vào những giáo lý
huyền bí nầy, trước hết người ta cần phải biết tiếng Hebrew. Tôi thuộc lòng một số bài kinh chủ yếu,
nhưng không biết nói tiếng Hebrew, nói gì đến việc đọc. Bên cạnh đó, tôi còn phải chấp nhận lối
sống theo đạo chính thống. Có nghĩa
là nếp sống trong gia đình phải theo các điều luật kosher, mà tôi không
biết đến những điều căn bản, cho nên điều đó là không tưởng. Và điều thứ ba đòi hỏi tôi phải là
nam giới. Coi như trong trường hợp của
tôi, không thể xảy ra rồi. Nói rõ lại,
là nữ giới, tôi chỉ đưọc phép lắng nghe, chứ không thể tham dự vào.
Tôi
cũng có viết thư cho Gershom Scholem, người đưọc coi là tiếng nói của
Kabbalah, mà tôi có đọc qua sách của ông. Gershom
từng là giáo sư ở Đại học Hebrew ở Jerusalem, nhưng ông đã nghĩ hưu,
hiện sống tại Thụy điển. Tôi nhờ
ông làm nhịp cầu để tôi có thể hiểu đưọc Kabbalah và Zohar. Oâng lập tức hồi âm cho tôi biết là gần
ba mươi năm về trước đã có những trường dạy về những giáo lý nầy
ở ngoài Jerusalem. Trường có tên là
Beth El (Nhà của Chúa), nhưng trường nầy bị đóng cửa vì thiếu thầy,
thiếu trò. Đó là lúc tôi bỏ không
theo đuổi con đường nầy nữa.
Gần
đây, tôi tình cờ đọc đưọc một cuốn sách rất thú vị, tựa là Người
Do Thái trong Cánh Hoa Sen (The Jew in the Lotus).
Cuốn sách kể lại một cuộc gặp gở ở Dharamsala, là nơi trú
ngụ của Đức Đạt lai Lạt Ma trong lúc lưu vong. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mời một phái
đoàn người Do Thái gồm các thầy Rabbi và các nhà lãnh đạo của những
đoàn thể tôn giáo Do Thái đến thăm hỏi.
Ngài muốn tìm hiểu tại sao người Do Thái có thể duy trì đưọc
dân tộc tính và tôn giáo qua hai ngàn năm lưu vong. Đó là câu hỏi người Tây tạng rất muốn
đưọc trã lời.
Điều
làm tôi cảm động nhất là phần diển tả buổi gặp gỡ giữa những người
tham dự hội thảo và khoảng chục người Do Thái đã xuất gia làm tăng ni
theo truyền thống Tây tạng. Các vị
tăng ni nầy hiện đang tu học, và sinh sống tại Dharamsala. Tất cả đều có cùng câu chuyện để kể
như tôi đã kể. Nghĩa là họ đã
tìm hiểu, đào sâu vào những khía cạnh thần bí của chính tôn giáo họ,
nhưng không tìm đưọc sự đồng cảm, do đó họ đã tìm đến với Phật
giáo, với tất cả lòng tin của họ.
Quyết
định xuất gia tu theo Phật giáo không phải là điều dể dàng đối với
tôi. Trước khi dứt khoát hẳn,
tôi đã tham dự một khóa an cư ba tháng trong một tu viện ở Thái Lan. Trong những tháng tám, chín và mười, trời
mưa liên miên ở Aán Độ. Và ở
Thái Lan, mưa rất lớn. Khóa an cư bao
giờ cũng bắt đầu vào một ngày rằm, do đó ngày theo dương lịch mổi
năm lại nhích thêm một chút.
Đức
Phật ngày xưa dành những tháng nầy cho các tăng ni đưọc ở lại trong chùa,
chuyên tâm tu học, tham thiền. Đồ vật
thực sẽ đưọc mang đến cúng dường cho họ tại chùa. Lý do rất thực tiễn và đáng ngưỡng mộ. Vì thời đó, Đức Thế Tôn có rất nhiều
đệ tử, hằng ngày bằng qua những cánh đồng để đi khất thực ở từng
nhà. Vào mùa mưa, những người nông
dân đến thưa cùng Phật rằng các vị tăng ni khi đi qua các ruộng đồng
đã dẫm lên các gốc mạ non, ẩn mình dưới nước, nên khó thấy. Và cuộc sống của họ tùy thuộc vào sự
lớn mạnh của cây lúa.
Đức
Phật quyết định không để việc nầy tiếp tục xảy ra. Cách tốt nhất là giữ họ ở lại trong
các tu viện. Từ đó sinh ra tục an cư
vào mùa mưa, kéo dài cho đến ngày nay. Ở
Tây phương, chúng ta thay đổi thời điểm an cư cho phù hợp với khí hậu
ở xứ sở mình. Chúng ta thường an
cư vào mùa đông, khi có tuyết đá rơi phủ, đó cũng là lúc ta nên ở
trong nhà hơn đi ra ngoài.
Thế
là tôi đã đến Thái Lan trong ba tháng, ở trong một tu viện nằm giữa rừng
cây rất đẹp. Ở đó có một vị
pháp sư đưọc nhiều người biết đến qua tên Tan Ajahn Singtong. Mẹ của Sư đã hơn tám mươi tuổi sống
cùng với các sư cô ở khu vực dành cho ni giới.
Mổi ngày Sư đều đến viếng thăm mẹ và giảng pháp, có người
dịch lại những bài giảng đó cho tôi.
Tôi
cố học tiếng Thái, nhưng tôi không thể nào quen đưọc với các âm ngữ
như tiếng nhạc của họ, nên đành bó tay.
Đó là một ngôn ngữ bằng thanh âm.
Cùng một chữ nhưng có thể có năm dấu nhấn khác nhau, tạo
nên năm nghĩa khác nhau. Tôi hoàn toàn
không thể phân biệt đưọc chúng. Đối
với nhiều người, thì việc đó không khó khăn gì.
Tôi
còn nhớ vài kỷ niệm về chuyến tu học nầy.
Trước hết là ngồi kiết già trên sàn gỗ để tọa thiền,
không có gối thiền. Những thứ nầy
phải tập mới quen, nên tôi cũng phải mất một thời gian mới làm đưọc.
Một
việc nữa, đã gây ấn tượng lạ trong tôi, là đưọc thấy các Phật tử
trong vùng, hằng ngày mang rất nhiều thức ăn đến tu viện cúng dường,
để tỏ lòng thành kính với Đức Phật và tăng chúng. Đó là một trong những phong tục, tôi
không chấp nhận ở những tu viện do tôi thành lập sau nầy. Đức Phật đã tuyên bố Người không muốn
tạo ra một tôn giáo thực phẩm, hẳn là phải có lý do. Ngoài ra tôi cũng không chấp nhận đưọc
một số phong tục khác ở Thái.
Nhưng
tôi cũng phải làm kẻ bàng quang, đứng nhìn các ni ở Thái Lan chỉ giữ
những vị trí phụ cần. Họ không
đưọc gọi là sư cô, mà là "những phụ nữ áo trắng". Tôi không cảm thấy hào hứng lắm về những
chuyện nầy.
Nửa
khóa an cư còn lại, tôi đến ở một tu viện khác trong rừng, nơi trưởng
lão Tan Ajahn Mahabova sinh sống, tôi đưọc nghe nói, Ngài là người đã đưọc
Giác Ngộ.
Cả
hai vị Tan Ajahn Singtong và Tan Ajahn Mahabova đều là những vị thầy đáng
kính. Tôi mang ơn họ rất nhiều. Có câu chuyện đưọc kể về họ như
sau. Khi nhà vua Bhumipol của Thái Lan
làm lễ mừng thọ sáu mươi tuổi, nhà vua mời những vị tăng nổi tiếng
trong nước đến dự, trong đó có hai thầy.
Trưởng lão Tan Ajahn Mahabova trã lời, "Nếu nhà vua muốn gặp
tôi, thì mời ngài đến đây". Trong
khi thầy Tan Ajahn Singtong nhận lời mời, cùng với chín vị tăng khác, lên
máy bay do nhà vua gửi đến chở họ. Máy
bay rớt, tất cả hành khách đều tử nạn.
Chuyện đó xảy ra mười năm sau khi tôi đến Thái Lan.
Thời
gian tu tập ở hai tu viện đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm sâu xa. Ở cả hai nơi, tôi đều đưọc nghe Pháp
bằng những bài dịch khá tốt. Nhưng
sự khó khăn về ngôn ngữ và vai trò phụ thuộc của ni giới, khiến tôi
chẳng thiết muốn đưọc trở thành một sư cô ở đó. Tôi đã từng thấy nhiều vị ni phải bỏ
cả buổi sáng để lo cơm nước cho các tăng mổi ngày! Tôi đã phải nấu ăn cho gia đình tôi hơn
ba mươi năm rồi, vì thế đó chẳng phải là một hình ảnh tương lai hấp
dẩn cho tôi.
Trở
về Uùc, tôi thưa với thầy Phra Khantipalo, "Con muốn trở thành một sư
cô, nhưng không phải ở Thái Lan". Tôi
đã chọn một nơi khác -đó là Sri Lanka. Tôi
vẫn còn nhớ đến vẻ đẹp của xứ sở mà chúng tôi đã một lần du lịch
qua đó -giống như những cảnh thiên đáng!
Và vì Sri Lanka từng là thuộc địa của Anh hơn một trăm năm,
nên rất nhiều người nơi đó có thể nói đưọc tiếng Anh.
Ở
đây, tôi muốn trở lại lý do vì sao tôi muốn xuất gia. Lúc nầy tôi đã năm mươi lăm tuổi, đã
đi khắp nơi trên thế giới. Tôi đã
có con, có cháu. Tôi đã có mái ấm
gia đình. Đã có tài sản. Tôi đã từng rơi vào cảnh nghèo khổ, rồi
cũng có lúc làm người giàu có. Tôi
đã từng làm chủ một trang trại, với những con ngựa Shetland. Tôi đã từng sống ở những đô thị lớn
của Mỹ, cũng như đã lang thang sống trong xe van, ngủ trên giường xếp,
ăn uống ở những bếp cắm trại. Tôi
đã từng là thư ký ngân hàng, là cô giáo của con trai tôi. Nghĩa là không ít thì nhiều tôi đã từng
trãi qua tất cả. Cuộc đời còn gì
cho tôi nữa? Cuộc sống không thể
mang lại cho con người sự bình an và hạnh phúc nội tâm, vì tất cả mọi
thứ trên đời đều vô thường.
Tất
cả những gì tôi vừa kể đã là quá khứ, đã qua đi. Tất cả những gì tôi kể lại ở đây
chỉ còn là ký ức, và còn nhiều thứ mà tôi không thể nhờ đến nữa. Tất cả đều biến mất trong dòng chảy
của thời gian.
Tôi
đã sống một cuộc đời đầy biến động.
Không phải do sự sắp đặt của tôi, tất cả mọi việc đều
tự nó đến. Tôi còn tìm kiếm gì nữa
ngoài chính bản thân tôi? Đã tới
lúc để giã từ đời sống thế tục. Nói
như thề có vẻ như tôi đang quay lưng lại với cuộc đời, dỉ nhiên là
tôi cũng đã từng nhiều lần làm như thế.
Nhưng không ai có thể hoàn toàn xa lánh cuộc đời. Một khi ta còn có thân, ta còn phải sống
trong thế giới nầy. Ta còn phải
nuôi dưỡng thân, phải tiếp xúc, phải chuyện trò với người khác.
Hơn
thế nữa: khi tôi thuyết pháp, các đệ tử đến nghe, mang theo với họ những
chuyện của thế giới bên ngoài.
Khi
nói 'từ giã cuộc sống thế tục", tôi chỉ có ý nói là tôi sẽ bước
sang một lối rẽ mới, sống một cuộc đời mới, để làm người quan sát,
kẻ đứng ngoài hơn là người chạy đuổi theo các ái dục. Những việc nầy không phải dể thực hiện
lúc đầu, nhưng dần dần qua thực tập, ta sẽ thấy dể dàng hơn. Người đứng ngoài sẽ dể thông cảm, thương
yêu đối với mọi người quanh mình, nhưng không để mình bị cuốn theo
tình cảm, hay số phận của họ.
Có
một danh từ rất đẹp: lòng thương cảm. Có
nghĩa là lúc ban đầu, ta rất dể đồng cảm với những người có các
tình cảm đam mê luyến ái. Nhưng mục
đích của Phật pháp là để hủy diệt các tình cảm nầy. Vì lòng luyến ái thường đưa ta đến thù
hận, tham lam.
Các
vị pháp sư luôn cố gắng truyền đạt những điều nầy đến với các
đệ tử của mình, và trong quá trình giảng dạy, chính họ cũng đưọc
nghiền ngẫm thêm những bài học thâm thúy nầy.
Vì chỉ nếu như trong khi dạy, bạn tự biết mình vẫn đang thực
hành những điều mình giảng, thì người ta mới coi như bạn là người có
tu chứng. Chỉ có như thế, bạn mới
cảm hóa đưọc người khác. Họ cần
phải biết khi bạn nói, bạn nói về những điều tự thân bạn cũng đã
kinh qua. Bạn không phải chỉ nói theo
sách mà truyền đạt từ trái tim của mình.
Vì
thế việc tôi quyết định xuất gia, chỉ là con đường tôi phải đi để
tự phát triển. Giờ nhìn lại, tôi
thấy chính quá khứ của tôi đã dẫn dắt tôi vào con đường nầy. Những kinh nghiệm bản thân đã giúp tôi
có thể xả bỏ những sợ hãi cho riêng mình, cho đồng loại. Tôi nhận thấy rằng tôi có thể đương
đầu với mọi nghịch cảnh trong đời, dù đó là ở vùng Amazon hay ở
trên tầng cao Hunza. Bạn có thể vượt
qua tất cả nếu bạn biết thuận theo dòng chảy.
Tôi
đã rèn cơ thể tôi có thể chịu đựng sự khổ cực. Đối với tôi, đó là một tiến bộ vượt
bực. Vì trong thời thơ ấu, tôi
luôn đưọc sống trong nhung lụa. Ở
Thượng Hải, cha mẹ tôi cũng cố giữ nếp sống củ cho tôi. Lớn lên, tôi sống ở Mỹ, cũng sung sướng
nhàn hạ ở đô thị, trong một ngôi nhà khang trang.
Nhưng
rồi cuộc sống sung sướng đó cũng chấm dứt.
Tôi đã phải ngủ nhiều đêm trên bãi biển đầy muổi, phải
qua sông trên những con thuyền làm bằng thân cây, dưới cái nắng đốt
da. Trên đoạn đường đi từ Java đến
Sumatra, chúng tôi đi trên một chiếc tàu là tàu chở các dây cáp, trên đó
không có chổ để nằm ngồi. Tôi phải
đánh giấc trên những tấm ván gỗ.
Tôi
không tiếc nuối đời sống sung sướng của mình, vì tôi thấy có nó cũng
đưọc, mà không có cũng đưọc. Đó
là một quá trình tự khám phá mình, một sự buông xả mọi điều kiện vật
chất bên ngoài. Bù lại, nó mang
đến cho ta biết bao tự do nội tại; nó khiến tôi nhận ra rằng những
khía cạnh của đời sống tâm linh mới quan trọng hơn nhiều.
Thế
là tôi bay qua Sri Lanka. Thầy Phra
Khantipalo trao tôi lá thư giới thiệu Thầy viết cho Hoà thượng Nyanaponika
Thera, một trong những vị sư nổi tiếng ở Sri Lanka. Hoà thượng sống trong một cái thất nhỏ
ở ngọai ô Kandy. Hòa thượng
Nyanaponika Thera là một người Đức, gốc Do Thái, đã xuất gia từ năm
1935. Vì có chung một hoàn cảnh,
chúng tôi cảm thấy rất dễ hoà hợp. Ngài
là một vị thầy đáng kính, hòa nhã với mọi người, là một thiền sư,
một học giả, đã dịch nhiều kinh sách Phật giáo từ tiếng Pali.
Tiếng
Pali chỉ đưọc xử dụng trong các bài kinh luận của Đức Phật, trong các
giới luật của tăng đoàn và Vi Diệu Pháp.
Đó là một ngôn ngữ của thời xa xưa, và không có mẫu tự
riêng.
Những
lời dạy của Đức Phật đưọc viết lại lần đầu tiên có lẻ vào khoảng
hai trăm năm mươi sau khi Ngài tịch, trên lá các cây cọ dùng mẫu tự
Singhalese. Ở Sri Lanka có một tu viện
vẫn tiếp tục sao chép từ các lá nầy qua những lá mới, vì chúng rất dễ
hư hoại. Lúc nào họ cũng phải có một
pho đầy đủ tất cả các kinh tạng Pali của Đức Phật trên lá.
Ở
Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau, chúng tôi có bộ kinh tạng Pali bằng
tiếng Anh và tiếng Đức trong thư viện. Tôi
biết rất ít tiếng Pali.
Hòa
thượng Nyanaponika Thera bảo là có thể xuống tóc cho tôi xuất gia bất cứ
lúc nào ở trong thất của người, nhưng làm như thế không trang trọng,
không có ý nghĩa, vì thế Ngài viết thư giới thiệu tôi cho Hoà thượng
Narada Thera, là trưởng ban hoằng pháp ở một ngôi chùa lớn ở Colombo.
Với
lá thư giới thiệu trong tay, tôi phải lấy xe buýt đi Colombo, một chuyến
đi dài và không kém phần nguy hiểm hơn những chuyến xe buýt tôi đã đi
ở Nam Mỹ trước đây. Tôi đến ra mắt
Hoà thượng Narada Thera. Hòa thượng
định ngày xuất gia cho tôi vào một ngày trong tháng bảy, năm 1979. Sau đó Hòa thượng trao tận tay tôi những
quyển sách kinh bằng tiếng Pali, mà tôi phải học. Phần lớn các kinh tôi
đã thuộc lòng. Số còn lại phải học
không có là bao.
Ngoài
ra Hòa thượng còn cho tôi địa chỉ nơi may y cho các ni. Không thể mua các y may sẳn.
Chiếc
y của tôi do một người thợ may nữ may bằng thứ vải dạ màu vàng. Y của tôi gồm có một chiếc sà rong quấn
quanh lưng, buộc bằng dây nịt, và một chiếc áo jacket nhỏ. Bên ngoài lại có thêm phần áo trên, giống
như chiếc áo dạ nâu tôi đang mặc, để cho thích hợp với khí hậu ở
Đức. Vải may chiếc y đầu tiên của
tôi bằng vải thật mỏng, vì khí hậu ở Sri Lanka nóng không chịu nổi. Hoà thượng Narada Thera hỏi tôi muốn lấy
pháp hiệu gì Dhammadinna or Khema. Tôi
quyết định khá nhanh chóng. Khema chỉ
có hai âm, rất dể cho người tây phương nhớ.
Sau
nầy, khi tôi đã qua một thời gian nghiên cứu, học hỏi, tôi mới biết
trong thời Đức Phật còn tại thế, Khema là một vị trưởng lão ni đã
đưọc Đức Phật khen là 'đầy trí tuệ".
Ban đầu, bà là vợ của một vì vua, một người đàn bà rất
tự mãn về sắc đẹp của mình. Bà
không hế để ý đến những lời thuyết giảng của Đức Phật, trong đó
Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng sắc đẹp bên ngoài không có nghĩa lý
gì. Dầu vậy, bà vẫn đến nghe Đức
Phật thuyết pháp. Đức Phật khiến
bà nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà còn đẹp hơn bà nhiều. Rồi Đức Phật cho bà thấy người đàn
bà đẹp đó trở nên già nua, mất hết sắc đẹp, dần dần cho đến lúc
chết. Lúc đó, hoàng hậu Khema nhận
ra rằng sắc đẹp không có nghĩa gì cả. Ngày
hôm sau, bà xuất gia đi tu, và dần đưọc Giác Ngộ. Đó là một trong những câu chuyện nổi
tiếng vào thời Đức Phật. Nhưng tôi
không hề biết đến câu chuyện nầy khi chọn cái tên đó.
Các
vị tăng thường có phẩm chức trước tên của họ như là Phra, Tan hay
Ajahn. Trước tên của tôi là
"Ayya". Ayya là tiếng Pali, đưọc
dùng để gọi các vị nữ tu từ thới Đức Phật. Tất cả các ni Tây phương theo Nguyên Thủy
kể từ sau tôi đều đưọc gọi là Ayya.
Và
tôi đã trở thành Ayya Khema như thế.
Trước
khi tôi đến chùa để làm lể xuất gia, các sư cô đã cắt tóc tôi. Lúc đó tóc tôi dài và rất dày. Theo nghi lể, người đưọc xuống tóc sẽ
cầm lấy một nhúm tóc của mình. Họ
phải cầm mảnh tóc đó trong tay, và nghĩ rằng chỉ vài phút trước đây,
mảnh tóc nầy là "của tôi". Và
giờ nó chỉ là một thứ dơ bẩn, đáng đưọc vứt vào thùng rác. Tôi vẫn nhớ là lúc đó tôi hoàn toàn
không có một cảm giác gì về việc đó. Không
ân hận, không có gì cả.
Buổi
lể bắt đầu. Trong bộ y vàng, tôi
đi băng qua sân đến từng ngôi tháp nhỏ. Tôi
tưởng là tôi hoa mắt: Cả sân chùa đầy nghẹt người. Có đến sáu hay bảy trăm người. Tôi hỏi Hòa thượng Narada Thera, họ làm
gì ở đây. Ngài bảo: "Tôi đã mời
tất cả mọi người đến". Đúng
vậy, ông đã mời tất cả mọi người quen biết, tất cả ai muốn đến
dự, tất cả những ai nói tiếng Anh. Tôi
quá đổi sợ hãi, đến nỗi quên tất cả tiếng Pali. Tôi không thể nhớ đưọc tôi phải nói
câu gì.
Hòa
thượng Narada Thera phải xướng từng câu từng chữ, và tôi lập lại theo
Thầy từng câu từng chữ. Buổi lể
xuất gia diển ra khá nhanh chóng. Chưa
đầy mười phút. Sau đó người xuất
gia phải lể Đức Phật, thầy mình và tất cả các vị tăng có mặt. Khi tất cả mọi nghi lễ đã xong xuôi, một
nhóm khoảng gần hai mươi cô gái áo trắng tiến lại phía tôi. Mổi người mang tặng tôi một món quà:
bàn chải răng, khăn tay, khăn mặt, một quyển thành ngữ. Tôi bị choán ngợp bởi mọi thứ. Các cô thiếu nữ nầy chúc mừng tôi. Các vị khách chúc mừng tôi. Sự chúc tụng kéo dài hằng giờ. Tôi nói cảm ơn không biết bao nhiêu lần.
Các
vị tăng ni theo truyền thống không nói cảm ơn.
Nhưng tôi vẫn chưa quên đưọc thói quen nầy. Tôi đã đưọc giáo dục như thế, tôi sẽ
còn tiếp tục nói Cảm ơn như thế. Lý
do khiến các vị tăng ni không nói lời Cảm ơn khi nhận cúng dường từ các
cư sĩ, vì chính người cúng dường cho các vị tăng ni sẽ đưọc thọ hưởng
phước báu rất lớn. Do đó người cúng
dường phải cảm ơn các vị tăng ni cho họ cơ hội đưọc cúng dường,
chứ không phải người thọ lãnh vật cúng dường.
Cuối
buổi chúc tụng, tôi đứng dậy, lúc đó một tu sĩ người Tây phương tiến
về phía tôi. Tên thầy là Sumedha. Trước khi xuất gia, đến sống ở Sri
Lanka, thầy từng là một họa sĩ rất nổi tiếng ở Thụy sĩ . Thầy nói: "Có thể nói là trước đây
bà chỉ có tình cảm (với Phật giáo), giờ bà đã coi Phật giáo là gia đình". Tôi biết Thầy muốn ám chỉ về sự liên hệ giữa tôi và Phật giáo. Tôi nghĩ đó là một cách diển tả rất
chính xác về sự xuất gia của tôi. Giờ
nhiệm vụ duy nhất trong đời tôi là làm một vị ni, từ giờ sự hiện hữu
của tôi là ở trong vai trò một người ni.
Có nghĩa là tôi không chỉ đọc về giáo lý của Đức Phật,
mà còn phải học thuộc một số kinh điển, và từng bước thực hành
chúng.
Từ
đó, tôi lại tham gia vào công việc giảng dạy, khiến tôi phải đi cùng
khắp thế giới. Ngày nay có hàng
ngàn Phật tử đã đưọc biết đến những kinh nghiệm tu tập của tôi
qua sách vở, băng cassette, hay qua các bài giảng, và chúng đã phần nào
đem lại lợi ích cho cuộc sống của họ.
Sống
đời sống độc thân là một trong những giới luật quan trọng của người
xuất gia. Là một sa di, tôi phải giữ
mười giới luật. Trong đó có năm giới
tôi đã từng đưọc nghe từ thầy Phra Khantipalo -chỉ có cái khác là giới
thứ ba trở thành giới sống đời độc thân- cộng với những giới sau
đây:
+ Không ăn phi
thời
+ Không nhảy
múa, ca hát hay dự các cuộc biễu diễn đó.
+ Không
đeo trang sức, hay sức nước hoa; không dùng mỹ phẩm
+ Không ngủ
trên giường cao nệm ấm
+ Không kinh
doanh để làm lợi cho bản thân.
Bắt
đầu từ thế kỷ thứ mười chín, ở Sri Lanka chỉ có các sa di ni. Để giải thích về điều nầy, tôi cần
đi ngược dòng lịch sử một chút. Theo
truyền thống, một vị ni chỉ đưọc coi là đã hoàn toàn thọ đại giới
-đưọc lên hàng tỳ kheo ni (bhikkhuni), sau khi vị ấy đã đưọc chấp nhận
vào tăng đoàn bởi các vị tỳ kheo
khác. Nhưng tăng đoàn của tỳ kheo ni
đã không còn hàng ngàn năm về trước. Hàng
ngàn vị ni đã đưọc nhắc nhở tới trong các kinh điển cổ xưa. Họ từng sống trong các tu viện to lớn. Rồi bổng nhiên tất cả đếu biến mất. Lúc đó là thời kỳ chiến tranh giữa
Tamils và Singhalee, có lẻ các vị ni dễ bị nguy hiểm hơn, có thể họ đã
bị tàn sát hay bị chết đói. Vì
bất cứ lý do gì, họ đã không còn có mặt ở đây.
Do
đó, vì không có các vị tỳ kheo ni nữa, nên tôi không đưọc trở thành
tỳ kheo ở Sri Lanka, mà chỉ là sadi ni. Sau
nầy tôi mới thọ đại giới ở California.
Có các ni theo thiền tông, có ni theo Phật giáo Tây tạng, có ni
theo Phật giáo nguyên thủy. Tôi theo
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), là tông phái rất thích hợp cho tôi.
Phật
giáo Nguyên thủy là Phật giáo cơ bản. Các
nước Thái Lan, Sri Lanka, Burma và Campuchia theo Phật giáo nguyên thủy. Tông phái nầy dựa vào những lời dạy từ
chính Đức Phật, và chính đặc tính nầy đã khiến tôi hướng về Phật
giáo từ những ngày đầu.
Sau
khi xuất gia, tôi đến một tu viện trung tâm, chuyên về thiền, ở
Kanduboda, cách Colombo khoảng nửa tiếng. Tôi
cần sự yên tĩnh, an bình. Tôi dọn
vào một phòng nhỏ, chỉ có giường, ghế và một bàn ngủ. Ở đây có điện, có buống tắm chung cho
mọi người. Giờ thức chúng mổi
ngày là bốn giờ sáng. Với cái nóng
ở Sri Lanka, phải dậy sớm không thành vấn đề. Buổi sáng không khí mát mẻ, dể chịu, bầu
trời quang đãng.
Tôi
còn nhớ buổi sáng đầu tiên của mình ở đó.
Trong lúc toạ thiền, tôi thấy một hình ảnh hiện ra trong tâm
mình. Đó là một sư cô, có lẻ là
người Singhalese, và tôi không hiểu sao, tôi tự nghĩ đó là hình ảnh của
mình. Tôi đang đứng ở một ngôi
tháp chờ đợi một vị tăng, tôi còn nhớ rõ ràng như thế, và vị ấy cũng
xuất hiện. Đó là một ngôi tháp to
ở trong cánh rừng. Tôi còn nhớ các
chi tiết hết sức rõ ràng.
Từ
những hình ảnh nầy, tôi đi đến kết luận, có thể tôi đã từng là người
xuất gia. Vậy thì giờ tôi càng thêm
quyết chí tiếp tục con đường mình đã bắt đầu trong các tiền kiếp.
Những
hình ảnh đó gây ấn tượng mãnh liệt trong tôi. Một ngày kia, tôi kể cho vị trụ trì
nghe về những gì mình đã thấy. Tả
về ngôi tháp rất chi tiết. Thầy trụ
trì bảo: "Con có thể đi thăm ngôi tháp đó; nó ở trong một cánh rừng
trong vùng Anuradhapura. Từ những gì
con đã tả, con sẽ tìm thấy nó dể dàng".
Và tôi đã thực sự tìm ra đưọc ngôi tháp đó. Đúng y như tôi đã thấy trong lúc ngôi
thiền đến từng chi tiết.
Tôi
rất thích cái thất của mình. Ở
trong đó, tôi có thể ngồi thiền rất yên.
Một ngày kia, có một phụ nữ đến thăm tôi. Bà mời tôi đến dự một cuộc họp mặt
của các vị ni người Singhalese, và nhờ tôi tổ chức họ lại. Tôi rất muốn đi, nhưng tôi chỉ mới xuất
gia đưọc vài ngày, tôi có tư cách gì để đảm nhiệm vai trò đó? Người khách bảo tôi là các sư cô không
có khả năng tự tổ chức. Họ cần
đưọc tổ chức lại để ni giới có tiếng nói hơn trong giáo hội. Điều đó sẽ giúp ni giới đòi hỏi đưọc
quyền đi học, đưọc có chổ ở thõa đáng hơn. Cho đến lúc đó, ni giới ở đây không
đưọc coi trọng, quyền lợi của họ rất ít ỏi.
Thế
là tôi tham dự vào cuộc họp đó. Chỉ
có một người nói đưọc tiếng Anh. Qua
người thông dịch viên, tôi mạnh dạn đề đạt những kiến nghị của mình. Tôi cũng không biết là những đề nghị
nầy có đưọc thực hiện không. Nhưng tôi coi đó là một nghĩa vụ phải
ủng hộ, nâng đở các bạn ni ở đó với những kiến thức chúng tôi có
đưọc từ phương Tây.
Trong
một trường hợp khác, tôi đã thành công.
Qua một phụ nữ tích cực, giờ đã thành bạn của tôi, tôi
đưọc biết đến một tu viện ở Madiwela, ngoại thành của Colombo. Danh từ "Tu viện" đã là một
phóng đại cho nơi chốn nầy. Đó chỉ
là một căn nhà nhỏ xíu, không có cả nhà bếp, dành cho các vị ni.
Tôi
đã đóng góp giúp họ xây đưọc một thiền đường, một phòng đọc sách,
và hai phòng ngủ. Và tôi đã dọn
vào ở một trong hai phòng đó. Chúng
tôi cũng xây cả nhà bếp -công việc đó đưọc các người thợ xây dựng
Singhalese không nói đưọc một chữ tiếng Anh đảm nhiệm. Hướng dẩn đưọc họ làm theo ý mình cũng
muốn không phải là chuyện dể dàng.
Chúng
tôi còn lo cả việc mời các pháp sư đến dạy, vì thiền đường còn có
thể dùng làm phòng học. Một tầm bảng
ghi công đức với tên tôi đưọc đặt lên tường, rồi còn có lể khánh
thành rất vui, với các em bé đến ca hát, nhảy múa, và với sự tham dự
của nhiều sư cô. Tôi dành mổi ngày
chủ nhật thứ hai trong tháng để làm ngày tọa thiền cho những người nói
tiếng Anh trong vùng. Họ luôn đến rất
đông, tham dự đủ hết các chương trình trong ngày. Tôi chỉ dẫn họ cách tọa thiền và tại
sao phải tọa thiền. Họ tự mang theo
đồ ăn trưa, các sư cô chỉ phục vụ trà.
Qua những hoạt động nầy, tôi đưọc quen biết với nhiều phụ
nữ Singhalese, có nhiều người cho đến giờ vẫn còn giữ liên lạc với
tôi. Có người hằng năm vẫn viết
thư thăm hỏi, có người viết thường xuyên hơn.
Lúc
tôi thọ giới xuất gia, tôi đã làm bà ngoại.
Cháu ngoại trai tôi tên là Matthew, sinh năm 1973. Lúc đó Jeffrey cũng đã hoàn tất chương
trình đại học, và đang sống chung với Susan, sau hai người đã kết hôn. Trong thời gian tôi làm sadi, Jeffrey đã
tìm đưọc việc làm ở Anh, làm kỷ thuật viên vi tính cho Đại học
Norfolk.
Khi
tôi rời Sri Lanka để trở về Uùc, tôi ghé qua Norfolk thăm con. Đường hàng không đã giúp khoảng cách
giữa con người hình như gần lại.
Trên
đường trở lại, tôi ghé qua Aán độ, vì tôi muốn đến Bombay thăm Sri
Nisargadatta Maharaj, một vị học giả với tiệm bán thuốc lá nhỏ của
ông. Tôi đã nghe nói những bài thuyết
giảng của ông rất hữu ích. Dầu
có địa chỉ của ông, tôi không chắc rằng mình có thể tìm gặp đưọc
ông.
Cuối
cùng tôi đến một con đường nơi mọi người không cần đợi tôi hỏi,
đã chỉ tay về phía một ngôi nhà nhỏ tồi tàn. Tầng dưới nhà ở mặt đường là một
tiệm nhỏ mở cửa bán thuốc là, đồ ngọt.
Người đàn bà tôi gặp cũng không nói một lời, chỉ tay về
phía cầu thang dẩn lên lầu. Trong căn
phòng nhỏ, đầy các vị khách Tây phương, Nisargadatta Maharaj ngồi trên một
tấm đệm nhỏ, với hai người thông dịch viên ở bên cạnh. Tôi vừa kiếm đưọc một chỗ ngồi xuống
trên sàn nhà, là Sri Nisargatta bắt đầu đặt câu hỏi nhắm vào tôi.
Điều
đó làm tôi khá bối rối. Tôi đến
để đưọc nghe những lời trí tuệ của ông, không phải để nói về
tôi trước mặt bao nhiêu người. Nhưng
ông không để tôi yên. Oâng hỏi
tên, hỏi quê quán, hỏi ai là bổn sư của tôi, kinh nghiệm tu tập của
tôi, vân vân. Cuối cùng ông bảo là
tôi đã đi đúng đường, nhưng chưa đạt đưọc Giác Ngộ.
Sau
tôi biết là với các vị khách mới đến, ông đều đối xử như thế cả. Tôi đến nghe ông suốt một tuần, nhưng
nhận thấy cách trình bày của ông quá khó hiểu. Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy là ông quá tự
tin về những hiểu biết của mình, nên chìm đắm trong sự hiểu biết của
mình, thật khó xếp ông vào hàng đã Giác Ngộ.
Oâng đã mất ba năm sau lần gặp gở đó, lúc ông đã hơn
tám mươi.
Trở
về lâm tự viện ở Uùc, tôi đã giúp thầy Phra Khantipalo trong các công việc
tổ chức và giảng dạy thường ngày. Một
biến cố quan trọng ở Wat Buddha Dhamma đã làm tôi nhớ mãi. Đó là một buổi tối đầy trăng, chúng
tôi đang chuẩn bị để ngồi thiền suốt đêm như thường lệ. Lúc đang ngồi trong thiền đường, tôi bổng
cảm thấy mỏi mệt, chán nản, càng lúc càng tăng. Chúng tôi đã ngồi suốt bốn tiếng, đã
tụng kinh, đã nghe pháp của thầy Phra Khantipalo, lúc đó là khoảng nửa đêm. Tôi bổng nhớ lại những gì tôi đã đọc
về các cảnh giới thiền trong kinh Phật. Tôi
đã tu chứng đưọc sơ thiền, một loại thiền định đem lại niềm vui,
an lạc, và bình an, mà tôi khá quen thuộc. Nhưng
tôi chưa từng kinh qua các cảnh vô sắc giới, mà cũng chẳng có ai có thể
giải thích hay thuyết giảng về chúng.
Bổng
tôi muốn thử đạt đưọc các cảnh vô sắc giới, không còn hình tướng,
không còn tưởng cũng không phải là không có tưởng nữa. Và lạ kỳ thay, với mức độ định tôi
đã có, giúp tôi dể dàng đi vào càc cảnh giới đó. Giờ thì sự mệt mỏi, chán nản đã qua
đi, tôi lại tiếp tục tọa thiền trong niềm hoan hỉ cho đến sáu giờ
sáng hôm sau.
Tôi
tiếp tục tọa thiền cách đó cho đến năm 1983, khi tôi đưọc gặp Hoà
Thượng Nannarama Thera, người khẳng định rằng tôi đã thực hành đúng
và khuyên tôi nên truyền bá lối tọa thiền nầy ở Tây phương.
Tôi
lại bị lôi kéo về Sri Landa. Tôi cảm
thấy ở đó có nhiều cơ hội để thực hiện những điều lợi ích. Tôi muốn giúp đở các sư cô bản xứ để
họ có thể tự vươn lên, ủng hộ họ, đóng góp ý kiến giúp họ có thể
thoát ra bóng tối họ đang sống. Những
người phụ nữ tôi đã gặp ở Madewela muốn giúp tôi thực hiện giấc mộng
nầy.
Một
ngày kia, tôi đưọc mời đến Polgasduwa. Đó
là một hòn đảo ở hồ Ratgama, phía nam Sri Lanka, nơi đó đã có các vị
tăng đang sống. Hòa thượng
Nyanatiloka Thera, người Đức đầu tiên tu theo Phật giáo, đã thành lập tự
viện trên đảo nầy vào năm 1911, và trụ trì ở đó. Đại đức Nyanaponika Thera là đệ tử của
ngài. Ngoài ra còn có một vị tăng nổi
tiếng khác, cũng là người Đức, ngài Lama Govinda cũng từng sống ở đó
một thời gian. Hầu như tất cả các
vị tăng Tây phương đều có mặt trên hòn đảo đó.
Trong
chuyến tôi đến viếng thăm, vị trụ trì yêu cầu tôi tổ chức khóa tu
thiền cho các đệ tử của ngài, vì ngài không muốn tự mình làm việc đó,
mà muốn nhờ tôi đảm trách. Tuy
nhiên trước khi việc đó có thể thực hiện, người ta bảo là các tăng
không đưọc phép nghe một người ni giảng dạy.
Người ni không đưọc phép dạy các tăng. Do đó chỉ có các cư sĩ tham dự khóa giảng
của tôi. Nhưng các bài giảng của
tôi đưọc thâu băng, và các tăng đưọc phép nghe các băng đó.
Các
cư sĩ tham dự khóa tu học là dayakas. Đó là tiếng Singhalese dùng để chỉ các
thí chủ, hay người cúng dường tiền bạc, thực phẩm, thuốc men để
chăm lo cho tự viện cũng như các tu sĩ ở đó.
Một trong những vị thí chủ nầy có ông Arthur de Silva. Người nầy và vợ là chủ một quán ăn
trên bờ hồ, phía bên kia đảo. Họ
là một cặp vợ chồng rất tử tế, dể thương. Giờ cả hai người đều đã không còn tại
thế.
Một
ngày kia Arthur đề nghị một điều mà trước đó chính tôi cũng đã nghĩ
đến. Tôi đã để ý thấy ở không
xa đảo của các tăng, trong cùng một hồ, có một đảo khác nữa. Trước đó tôi đã nghĩ nếu các tăng đã
ở đảo nầy, các ni có thể ở đảo kia. Lúc
nầy Arthur lại hỏi tôi có nghĩ đến việc xây một ni viện trên đảo thứ
hai không. Tôi hỏi lại ông: "Thế
ông có nghĩ là tôi nên ở trong ni viện đó không?" Oâng trã lời: "Dỉ nhiên rồi. Tôi sẽ thiết kế, mướn người, quản lý
thợ xây dựng và mua vật liệu. Tôi
sẽ kêu gọi người ta phát tâm".
Đó
là khởi đầu của sự hợp tác giữa hai chúng tôi, một sự hợp tác tốt
đẹp mang đến cho cả hai chúng tôi nhiều lợi ích, cho đến ngày ông mất
vào năm 1989.