Người đã làm điều tốt
Khi
qua cõi đời khác
Ở
đó thiện nghiệp sẽ đón tiếp người ấy
Như thân quyến đón người thân bao
lâu xa.
Kinh Pháp Cú -
220
Tôi
muốn đưọc nói đôi lời để tưởng niệm người mà không có ông dự
tính xây dựng một ni viện trên đảo của tôi sẽ không bao giờ thành hiện
thực. Đó là ông Arthur de Silva ở
Dodanduwa.
Rất
ít khi ta đưọc gặp một người như ông Arthur de Silva. Là người Singhalese có tổ tiên là người
Portugese, ôâng nói tiếng Anh rất lưu loát.
Dốc hết sức mình vào việc xây dựng ni viện, ôâng đã nói
rằng trước giờ lâm chung, ông sẽ rất mãn nguyện vì đã đưọc đóng
góp công sức vào đó.
Oâng
đã mua từng cây đinh, con ốc, rồi chuyên chở mọi thứ đến đão trên
chiếc thuyền do ông làm bằng thân cây to. Oâng
mướn thợ, và trong suốt thời gian xây dựng, ông đôn đốc họ làm việc,
không để lãng phí vật liệu. Đó
là một việc không phải dể làm ở Á châu.
Trong
thời gian đó, tôi chu du khắp nơi thuyết giảng, mở khóa tu, đến mọi miền
ở Uùc, Phi Châu, Indonesia, Mỹ, và lần đầu tiên ở Đức. Đưọc đồng tiền cúng dường nào tôi
đều gửi về cho Arthur de Silva.
Tôi
xin kể ở đây câu chuyện của lần gặp gở định mệnh trong thời gian tôi
đang ở Bali. Ở đó có một ngôi
chùa rất đẹp, do một vị đại đức trụ trì.
Ông yêu cầu tôi mở khóa tu cho các du khách. Vì có rất nhiều người khi thăm viếng
chùa, đã có yêu cầu như thế. Tôi
đồng ý, thế là vị trụ trì dán bản thông báo về khóa tu ở khắp nơi. Kết quả là có bảy người ghi tên tham dự:
năm người Đức và hai người Mỹ.
Ngôi
chùa rất đẹp. Cuộc đời của Đức
Phật đưọc chạm trổ tỉ mỉ trên các cánh cửa gỗ. Quanh chùa có các suối nước trong mát,
có những tảng đá hình người lạ lẫm, quanh năm đầy hoa cỏ nhiệt đới. Bên trong chánh điện là một bức tượng
của Đức Phật đẹp đẻ, nguy nga tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác.
Trong
bảy ngày, tôi giảng dạy bằng tiếng Anh. Vào
tuần thứ hai, tôi nhận thấy hình như trong các học viên, có người không
hiểu tôi nói gì. Thì ra anh ta là người
Đức, tên là Charlie. Tôi chỉ biết
có thế.
Khi
đưọc hỏi có hiểu tôi nói gì không, anh thú nhận: "Thưa không",
vì anh không biết tiếng Anh. Sau đó,
buổi sáng tôi giảng bằng tiếng Anh, buổi tối bằng tiếng Đức. Tôi còn nhớ, trong tuần lể đó, sức khỏe
tôi không đưọc tốt. Tôi bị bịnh
gì đó mà không ăn uống đưọc. Nhưng
vì không muốn các học viên phải thất vọng, tôi cố gắng tiếp tục dạy. Cuối cùng, lòng say mê học hỏi của họ
cũng an ủi tôi phần nào.
Charlie
và người bạn của anh tỏ ra rất chăm chú, ham hiểu biết. Các học viên khác còn có khi bỏ học, chứ
Charlie và Norbert lúc nào cũng có mặt. Sau
khi hai người Mỹ có việc phải về sớm, tôi hoàn tất chương trình học
bằng tiếng Đức.
Cuộc
gặp gở với Charlie và Norbert mang lại nhiều ý nghĩa cho những ngày cuối
đời của tôi. Norbert là em của thầy
Nyanabodhi, người đã trú ngụ tại tu viện Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau
với chúng tôi từ những ngày đầu thành lập.
Tôi đưọc biết thầy qua Norbert, dưới thế danh là Roland. Không có hai anh em họ và Charlie, tu viện
Buddha-Haus sẽ không thể thành hình. Họ
chính là những người đã khuyên tôi rời bỏ Sri Lanka trở về Đức. Họ đã giúp tôi trong việc xây dựng tu
viện, hiện giờ thì cả Norbert và Charlie đều dạy ở trung tâm thành phố
Munich. Thầy Nyanabodhi là trụ trì ở
lâm tự viện của chúng tôi.
Nhưng
giờ hãy trở lại chuyện xây cất ni viện và ngài Arthur de Silva. Oâng vào số từng xu tiền bạc tôi gửi
cho ông, Tôi thì không quan tâm đến
những chuyện ấy vì tôi tin tưởng ông tuyệt đối. Nhưng ông không thay đổi, vẫn làm đầy
đủ bổn phận, vẫn chú tâm đến sự chính xác của từng con số. Oâng đã tự vẽ bản đồ xây dựng, và
dỉ nhiên, không giống như tôi, ông có thể điều khiển những người thợ
xây dựng bằng ngôn ngữ của họ.
Từ
lúc mới biết nhau, chúng tôi đã hợp ý như thể chúng tôi đã biết nhau
tự bao giờ. Ngay các vị khách đến
thăm ni viện cũng nhận thấy là chúng tôi có thể hiểu ý nhau rất nhanh. Có lẻ từ một kiếp nào đó cũng chúng
tôi đã có duyên gặp gỡ.
Sáu
cái thất (kuti) đưọc xây trên đão -dành riêng cho các sư cô. Tất cả đều rất đẹp: Trong mỗi thất có một giường lớn, một
phòng tắm và một ngôi vườn nhỏ có tường bao bọc. Ngõ vào thất đưọc che bằng một mái
hiên nên vào mùa mưa không bị ướt khi bước ra ngoài.
Tôi
chọn đưọc một nơi khuất nhất, rất ưng ý trên đảo để xây thất. Trên mặt đất có một hòn đá to, phẳng. Chúng tôi dự định sẽ xây thất quanh
hòn đá, để tôi có thể dùng hòn đá làm chổ ngồi thiền. Tất cả đã đưọc xây dựng theo đúng
như thế.
Sau
đó Arthur de Silva báo tin cho tôi: "Ni Sư có thể đến rồi". Thế là tôi bay từ Uùc, là nơi tôi đang
có mặt ở thời điểm đó, đến Sri Lanka.
Các sư cô cùng dọn vào ni viện với tôi đều là người Đức.
Mọi
thứ vẫn còn bề bộn lắm. Nhà bếp,
phòng ăn vẫn chưa có. Chúng tôi phải
nầu ở bếp đặt ngoài trời, rất ư không thuận lợi. Aên uống cũng ngoài trời.
Chung
quanh chúng tôi các công trình xây dựng vẫn đưọc tiếp tục. Một tòa nhà rất lớn đang đưọc xây
trong đó có nhà bếp, phòng ăn, thư viện, một hành lang nhỏ và một kho
chứa đồ, cũng là chổ ngủ của người đầu bếp. Quanh nhà, theo kiến trúc thời thuộc địa,
là một hàng hiên che mát. Tòa nhà vẫn
còn y nguyên cho đến ngày nay.
Chúng
tôi đặt những chậu hoa dọc theo hàng hiên, để làm tăng theo vẻ mỹ
quan cho tòa nhà. Và để thêm hoàn hảo,
tôi cho làm một hồ sen trong khuôn viên chùa.
Tôi rất thích hoa sen. Ở
Đức, không có sen, tôi thay bằng hoa huệ nước.
Cả hai loại hoa đều cùng họ, và rất giống nhau. Hình ảnh của hoa sen gắn liền với Đức
Phật. Người ta thường tạo dựng các
hình tượng Đức Phật ngồi trên tòa sen, vì đặc tính của hoa sen là
trong sạch, không nhiễm nhơ uế. Nước
rơi trên các cánh hoa sen đều chảy xuống thành hạt, nên không làm ướt
cánh hoa. Ngoài ra hoa sen còn đưọc dùng
làm biểu tượng cho sự thành đạo, vì tuy hoa mọc trong bùn, nhưng cánh
và hoa vươn lên cao, không nhiễm ô uế.
Sau
các đệ tử người Đức, có một phụ nữ người Singhalese tìm đến tu
viện của chúng tôi. Trước đây cô
đã là đệ tử của tôi. Giờ cô muốn
đưọc thọ giới xuất gia ở trên đảo. Nhân
dịp đó, tôi mời cả các tăng ở đảo láng giềng và mời tất cả các
cư sĩ trong vùng đến dự. Có hơn hai
ngàn người tất cả. Không thể ngờ
nhiều người đến vậy, tôi tự nghĩ không biết hòn đảo có bị chìm xuống
không dưới sức nặng của bấy nhiêu người.
Cũng may là việc đó đã không xảy ra. Dỉ nhiên là các cô bé mặc áo trắng cũng
có mang quà đến.
Vị
sư cô đó giờ là người kế thừa tôi làm trụ trì ở tu viện đó. Sư cô làm rất tốt bổn phận đưọc
trao phó. Tôi rất mãn nguyện đưọc
biết rằng cả hai tu viện, một ở
Uùc mà tôi đã thành lập cùng với đại đức Phra Khantipalo, và một ở
Sri Lanka vẫn tiếp tục trường tồn dù không có tôi.
Đó
cũng là điều tôi mong mỏi sẽ xảy ra ở tu viện Buddha-Haus ở Allgau -dù
không có tôi, đây vẫn là nơi mọi người sẽ tụ đến để niệm hồng
danh Phật. Suy cho cùng, tôi không biết
mình còn sống đưọc bao lâu nữa. Các
đệ tử thì mong tôi có thể ở với họ lâu hơn.
Lúc
bắt đầu, chỉ có chúng tôi, một vài sư cô sống trên đảo, nhưng dần
dần người ta biết đến tu viện nhiều hơn.
Có lẻ cũng nhờ tôi đã đi hoằng pháp nhiều nơi trên thế giới,
người ta biết đến tôi nhiều hơn. Và
rồi tu viện của tôi ở Sri Lanka cũng dần dần tới tai mọi người.
Chúng
tôi xây một nhà khách sáu phòng, mỗi phòng có thể chứa hai người. Nếu cần, chúng tôi cũng có thể đặt thêm
một giường trong mỗi phòng. Nghĩa là
chúng tôi có chỗ cho mười tám khách tạm trú cùng một lúc.
Trong
sáu thất còn lại, tôi và ba sư cô khác ở.
Có hai thất đưọc dành cho các nữ cư sĩ nào muốn đến ở
để học hỏi thêm về giáo lý Đức Phật.
Nhiều
vị, trong đó có cả người Đức, ở đến một năm rưỡi. Nhưng cũng có người chỉ ở một đôi
ngày. Sau đó tôi chỉ cho những người
ở ít nhất là ba tháng đưọc ở. Nếu
không nơi nầy biến thành một nhà ga. Nhiều
người ra vào liên tục khiến chúng tôi không kiểm soát nổi. Ngoài ra ở ngắn quá, cũng khó thể thiết
lập một chương trình tu học cho riêng họ.
Mặc
thời tiết nóng bức, chương trình tu học của chúng tôi cũng đầy kín. Tuy nhiên cũng có một số việc phải du
di vì thời tiết, nếu không chắc khó có ai chịu nổi. Mổi sáng chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ,
tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng Anh, rồi tọa thiền, sau đó dùng điểm
tâm. Luôn có một người nấu ăn ở
đó để giúp đở chúng tôi, ngoài ra các cư sĩ tạm trú cũng thay nhau phụ
giúp trong bếp.
Sau
đó chúng tôi làm việc vài tiếng trước khi dùng bữa ngọ, vì chúng tôi
có xuất bản một tờ tin. Ngoài ra, dỉ
nhiên là còn phải làm các công việc dọn dẹp trong tu viện, tưới hoa, nhổ
cỏ. Thư viện cũng cần đưọc sắp
xếp lại, phải làm bìa cho các sách, phải trã lời thư từ - nghĩa là
lúc nào cũng không thiếu việc cho chúng tôi làm, và trong khí hậu nóng bức
đó, mọi việc đều đòi hỏi một sự cố gắng. Sau khi thọ trai, tôi giảng về các giới
luật trong tăng đoàn, luật tỳ ni.
Các
người nữ ở với chúng tôi đưọc gọi là Anagarikas, có nghĩa là những người tu
trong một thời gian ngắn. Nhưng nếu
cho dù sau nầy họ có rời bỏ cuộc sống ở tu viện, các giới luật nầy
cũng rất hữu ích cho họ. Tôi cố gắng
làm cho việc giảng dạy đưọc hấp dẩn bằng cách xen vào các giới luật
là những câu chuyện giải thích tại sao Đức Phật đã tạo ra chúng. Vì lúc bắt đầu, khi Đức Phật nhận các
đệ tử, thì chưa có luật lệ gì cả. Họ
là những vị đã tu chứng, nên không cần luật lệ gì. Chỉ có sau nầy, khi hàng ngàn đệ tử xuất
gia với Đức Phật, lúc đó các giới luật mới trở nên cần thiết.
Buổi
chiều, các sư cô đưọc tự do -có thể nghĩ ngơi, ngồi thiền dưới các
gốc cây, đọc sách hay viết lách.
Đến
tối, tôi lại giảng pháp. Từ các
bài giảng nầy, gom góp lại đưọc ba quyển sách nhỏ. Quyến đầu tiên đưọc gọi là Be An
Island Unto Yourself (Oác đảo Tự Thân), bằng tiếng Anh, vì tôi giảng bằng
tiếng Anh. Tôi in sách bằng tiền
cúng dường và đem phát không cho mọi người.
Đó là quyển sách đầu tiên của tôi, đến nay sách vẫn còn
đưọc tái bản, cả ở đây bằng tiếng Đức.
Dỉ nhiên giờ thì tôi không thể phát không đưọc nữa, vì
chi phí in ấn rất cao. Cho tới giờ nầy
đã có hai mươi lăm quyển sách đưọc hình thành dựa vào các bài giảng
của tôi. Sách đưọc viết bằng tiếng
Anh và Đức và đã đưọc dịch ra bảy thứ tiếng.
Thời
khoá biểu hằng ngày trên đảo đưọc giử rất chặt chẻ. Khi hai mươi phụ nữ, đôi khi hơn nữa, sống
với nhau, cần phải có luật lệ. Ngay
cả với những luật lệ như thế, cũng không phải dể dàng để hoà hợp
mọi người với nhau, vì mổi người một cá tính, một quan điểm riêng
biệt.
Đa
số các sư cô là người Tây phương. Các
vị người Singhalese nhiều khi không bằng lòng cách làm việc của họ. Cũng dể hiểu, vì họ đến từ hai nến
văn hóa khác nhau.
Arthur
de Silva giống như một thiên thần bảo hộ, luôn giúp đở tôi rất đắc
lực. Tất cả các khách vãng lai đều
tụ tập ở nhà ông. Từ đó, ông lo
thuyền vận chuyển họ đến đảo. Oâng
để tâm nghe nghóng các yêu cầu, phê bình của mọi người và cố gắng
trong khả năng của mình đáp ứng các yêu cầu đó. Khi Jeffrey và vợ là Susan đến đảo thăm
tôi, chúng đã ở nhà ông bà De Silva và đưọc họ chiều chuộng hết mức.
Vị
trụ trì của nam viện trên đảo láng giềng thì giống như một người
cha của chúng tôi. Mổi ngày ông đều
đi thuyền qua đảo xem chúng tôi có cần giúp đở gì không. Oâng mang đến cho chúng tôi nào là chuối,
dừa và các loại trái cây khác, cũng như rau cải, gạo -nghĩa là tất cả
những gì mà các Phật tử cúng dường bên đảo của các tăng có dư, ông
đều chia sẻ với chúng tôi.
Một
phần trong đời sống tu hành của chúng tôi là pindapat, đi trì bát. Đây là một phong tục truyền thống của
các tăng ni từ thời Đức Phật còn tại thế.
Phong tục nầy rất thịnh hành ở các lâm tự viện bên Thái
Lan. Ở Sri Lanka phong tục nầy hầu như
đã bị bãi bỏ. Vì có lẻ người ta
đồng hóa hình thức trì bát khất thực với đi xin ăn.
Mổi
tuần chúng tôi đi thuyền qua đất liền để đi khất thực -các sư cô
đi trước và các học giới nữ (anagarikas) theo sau- vào trong làng. Nhiều người đứng trước cửa nhà chờ
chúng tôi đến. Họ mang đồ cúng dường
đã đưọc chuẩn bị, bỏ vào các bát khất thực, chúng tôi dừng lại
và nâng cao bát trước mặt họ. Chúng
tôi thường đưọc nhiều gạo quá đến nổi các cô học giới nữ phải
bỏ vào bao mang theo.
Lần
đầu tiên chúng tôi đi trì bát, nhiều phụ nữ, già cũng như trẻ đều
ra bỏ thức ăn vào bát cho chúng tôi. Họ
khóc và bảo rất mang ơn chúng tôi đã tạo cơ hội cho họ đưọc cúng dường
các ni. Đưọc tiếp xúc với tăng ni
đối với các phụ nữ nầy là đưọc tiếp cận với Phật giáo. Đó là lý do chính tại sao tôi phát huy
truyền thống nầy. Nhưng chúng tôi
quyết định không đi mổi ngày, vì dân chúng ở đây rất nghèo; thật là
không phải khi họ còn phải chia sẻ phần ít ỏi đó -lại là những thứ
ngon nhất, tươi nhất của họ- cho
chúng tôi mỗi ngày.
Có
bốn làng dân ở quanh khu hồ. Chúng
tôi luân phiên đền từng làng, nên mổi làng chúng tôi chỉ đến mười
hai lần trong một năm. Kể ra không
nhiều lắm, nhất là khi họ rất vui mừng tiếp đón, cúng dường khi chúng
tôi đến khất thực.
Theo
truyền thống, đi khất thực phải đi bằng chân không. Đôi khi đi cả trên nhựa đường nóng
có thể khiến chân phỏng hay đi trên những con đường làng đầy đá sỏi
cũng không phải là chuyện dể dàng.
Tôi
không chỉ muốn đưọc dân địa phương chấp nhận, mà còn muốn đem lại
chút hạnh phúc trong cuộc sống khó khăn của họ, cuộc sống đầy bao công
việc tay chân nặng nhọc. Với ý nghĩ
đó, vào chủ nhật cuối tháng tôi thường đến thăm ngôi làng đã cúng dường
cho chúng tôi suốt tháng đó để tặng cho họ một thời pháp, với sư cô
người Singhalese làm thông dịch viên. Chúng
tôi thực hiện việc nầy theo truyền thống như trong thời Đức Phật tại
thế. Chúng tôi ngồi dưới gốc cây
to, chờ mọi người đến. Dân làng lũ
lượt kéo đến cùng với con cái, người thân.
Lúc nào cũng ồn ào, lại còn có những người bán dạo cũng
đem theo, rồi các em bé cùng với các gia súc.
Tôi
đã giảng về những điều rất đời thường thí dụ -phải đối xử với
hàng xóm láng giềng, với vợ chồng như thế nào, vì có rất nhiều xung
đột trong những làng nầy. Ở trên
đảo, chúng tôi cũng nghe rất nhiều về những chuyện xung đột của họ. Tập họp họ lại ở đây để nói về
những việc nầy là một việc rất tốt. Qua
họ, tôi muốn nói lời cảm ơn về sự ủng hộ, chấp nhận tôi ở Sri
Lanka.
Một
ngày kia, tôi đưọc báo tin là ngài thủ tướng Sri Lanka muốn thăm tu viện
và học tu thiền với chúng tôi. Chuẩn
bị cuộc đón tiếp nầy đòi hỏi rất nhiều công lao, rất nhiều việc
phải làm. Con đường xuyên qua làng dẩn
đến bờ hồ đưọc trãi đá, các biễu ngữ đưọc giăng khắp nơi, và
các hộ vệ của ngài thủ tướng phải đến trước một ngày hầu giữ
cho hòn đảo của chúng tôi đưọc hoàn toàn an toàn. Họ xét từng gốc cây, bụi cỏ để xem
có ai núp sau đó không.
Rồi
thì ngài Premadasa cùng với phu nhân và một số người tháp tùng cùng đến
đảo, nơi chúng tôi đang chờ đón ông ở bến đò. Oâng yêu cầu đưọc dẩn đến thất của
tôi, rồi đến thiền đường đế bắt đầu buổi tọa thiền. Oâng dự định sẽ ở lại đây hai ngày.
Sau
khi tôi đã cố gắng giải thích một số điều với ông về thiền, chúng
tôi ngồi thiền đưọc khỏang hai mươi phút, một cận vệ của ông vội
vã bước vào và báo rằng Ngài Premadasa phải trở về Colombo ngay lập tức,
vì có cuộc khủng hoảng nội bộ ở quốc hội.
Vậy là kết thúc buổi tọa thiền, kết thúc sự tu học.
Vài
năm sau, Ngài Premadasa đưọc bầu làm tổng thống của Sri Lanka, và sau một
thời gian ngắn ở địa vị, ngài đã bị ám sát bởi một trái bom của bọn
khủng bố.
Khi
tôi không có mặt ở tu viện, tôi xuất ngoại đi thuyết pháp khắp nơi. Thứ nhất là vì chúng tôi cần tiền
cúng dường từ những buổi thuyết pháp đó để bảo trì tu viện trên đảo. Tuy nhiên, sau một thời gian, tôi cảm thấy
muốn đưọc trở về tu viện, xa rời mọi hoạt động một khỏang thời
gian. Tôi muốn đưọc nhập thất, chỉ một mình khoảng ba tháng.
Những
người Singhalese, bạn của tôi, có một đồn điền chuối trong rừng. Trên đồn điền có một ngôi nhà củ, đã
xuống cấp rất nhiều, nhưng vẫn còn có thể che nắng che mưa. Và thế là tôi đã đến ở nơi đấy suốt
ba tháng một mình. Các bạn của tôi
đã sắp xếp cho tôi một người giúp việc người Tamil. Anh ta không biết tiếng Anh, tôi không biết
tiếng Tamil, nên chúng tôi luôn im lặng. Tôi
chỉ biết một chữ cho Nước, để nhờ anh mang đến khi cần. Họ còn muốn mướn cho tôi cả đầu bếp,
nhưng tôi đã bác bỏ ý kiến đó. Chỉ
tạo thêm phiền phức. Người giúp việc
cũng có thể vào làng mua trứng, bánh mì, cà chua và dưa leo cho tôi. Thế là quá đủ. Tôi không cần phải có thức ăn nóng sốt
mổi ngày. Các bạn tôi cũng cung cấp
cho tôi rất nhiều trà vì đây là đồn điền trà của họ, ngoài ra còn
có rất nhiều chuối, dừs, và thơm. Những
thứ nầy lúc nào cũng có.
Tôi
lập một thời khóa biểu cho riêng mình và dành nhiều thì giờ cho việc tọa
thiền. Thời gian nầy tôi coi như
đang đưọc nghỉ phép, vì đây là lần đầu, tôi không phải lo cho ai cả.
Thời
điểm nầy qua sự giới thiệu của một vị sư khác, tôi đã đưọc gặp
vị lão hòa thượng, người Singhalese, người đã tạo nhiều ảnh hưởng
lớn đối với tôi. Không ai hiểu về
thiền bằng ông.
Vào
lúc đó ở Sri Lanka, người ta còn rất xa lạ với việc phát triển tu thiền,
nhưng qua thời gian cũng có nhiều thay
đổi tích cực, nhờ vào ảnh hưởng của các sư cô người Tây phương, mà
tôi có lẻ cũng có góp phần vào đó.
Vị
đại lão hòa thượng Nannarama Thera, là trụ trì một lâm tự viện nằm giữa
rừng. Khi đưọc nghe nhiều câu chuyện
liên quan đến Ngài, tôi quyết tâm phải tham kiến người. Lần đầu tiên tôi đưọc gặp Hòa thượng
ở nhà một Phật tử ở Colombo. Ngài
đang ở đó trị bịnh. Lần diện kiến
đầu tiên đó vào năm 1983 là một kỷ niệm khó thể quên đối với tôi. Tuy nhiên vì bất đồng ngôn ngữ, chúng
tôi không thể trao đổi trực tiếp, may mà một vị sư trẻ, là thị giả
của Ngài có thể nói tiếng Anh lưu loát.
Tôi
ngồi trên sàn, đối diện Hoà thượng Nannarama Thera, rồi bắt đầu kể
cho Ngài nghe về những kinh nghiệm tu thiền của tôi. Tôi đã vào đưọc định từ nhiều năm
nay, nhưng chưa tìm đưọc ai để có thể chia sẻ những kinh nghiệm nầy,
cũng như để người đó có thể bảo với tôi là phương pháp tu tập của
tôi là đúng. Cuối cùng tôi mới tìm
gặp đưọc người ấy.
Sau
vài phút, trong khi Hoà thượng chăm chú lắng nghe, tôi bỗng sực nhớ rằng
Ngài không biết tôi là ai, hẳn là tôi cần phải thưa lại là tôi đã
hành thiền hơn hai mươi năm nay. Nếu
không e rằng Hoà thượng sẽ nghĩ là tôi đã vọng tửơng hay những điều
tôi tu chứng là do tình cờ. Sau khi vị
sư trẻ thông dịch lại với Hoà thượng điều đó, Ngài phá ra cười và
nói gì đó với vị sư trẻ. Người
nầy quay sang tôi dịch: "À, bà ấy đã tu thiền hơn hai mươi năm! Đúng hơn là hai mươi kiếp!"
Tôi
lại tiếp tục câu chuyện của mình. Lúc
đến định thứ tám, tôi không biết phải trình bày lại như thế nào,
nên tôi thưa là tôi sẽ thực hiện ngay điều đó hơn là trình bày sai. Thế là tôi chú tâm thiền định và đi từ
định thứ nhất đến thứ tám, qua từng giai đoạn một, trong vòng chỉ
vài phút.
Khi
tôi mở mắt ra, tôi nhìn thấy Hoà thượng Nannarama Thera nhìn tôi vừa ngạc
nhiên vừa tán thán. Sau đó tôi tả lại
những cảm giác ở định thứ tám. Nói
chung, việc diển tả cũng ngắn thôi, vì ở trạng thái định nầy tâm
hoàn toàn lắng đọng.
Hoà
thượng Nannarama Thera xác định là tôi đã hành thiền đúng phương pháp
và diển tả các trạng thái thiền định rất chính xác. Sau đó Hòa thượng bảo rằng bổn phận
của tôi là phải trở về truyền lại cho phương Tây những phương pháp
thiền định nầy, sợ rằng những phương pháp nầy sẽ bị thất truyền.
Tôi
đã khắc sâu những lời dạy của Ngài. Tôi
đã truyền dạy các phương pháp tu thiền từ nhiều năm nay. Lúc đầu, tôi hơi do dự khi đem truyền dạy
phương pháp tu không đưọc phổ biến nầy cho đại chúng, nhưng tôi nhận
ra rằng càng ngày các đệ tử của tôi càng đạt đưọc nhiều kết quả
trong thiền định. Vì thế, tôi càng
giải thích cho họ cặn kẻ thêm. Ngày
nay các vị đệ tử nầy đóng góp rất nhiều vào tất cả các khóa tu thiền
của tôi.
Sau
nầy, tôi thường phải đi hơn sáu tiếng đồng hồ để đến thăm lão
Hòa thượng Nannarama Thera ở lâm tự viện để trao đổi, tiếp nhận thêm
sức mạnh và sự hướng dẩn của Ngài. Lúc
nào tôi cũng đưọc Ngài tiếp đón nồng hậu.
Ngài luôn nhớ về lần gặp gở đầu tiên với tôi, nhất là
lúc tôi nhập định thứ tám để trình kiến giải với Ngài.
Ngài
đã viết một quyển sách đưọc dịch từ tiếng Singhalese sang tiếng Anh. Một quyển sách mỏng thôi, nhưng Ngài diển
tả toàn bộ con đường của giáo lý Đức Phật -từ lúc khởi đầu cho
đến ngày Giác Ngộ. Tôi mang quyển
sách đó theo tôi trong ba tháng ở đồn điền chuối để học tập. Khi có điều thắc mắc, tôi đánh dấu
vào quyển sách. Sau ba tháng nhập thất,
tôi tìm đến lão Hòa thượng Nannarama Thera tham vấn với Ngài từng câu, từng
chữ trong sách. Sau đó, tôi đã dịch
quyển sách ra tiếng Đức. Phần dịch
thuật của quyền sách đưọc coi là món quà cho sinh nhật năm tôi bảy mươi
tuổi.
Ba
tháng nhập thất một mình rất hữu ích cho tôi.
Khi ra thất, tôi cảm thấy như có thêm sức mạnh -sẳn sàng để
chia sẻ những gì tôi gặt hái đưọc với bất cứ ai muốn nghe. Cho đến ngày hôm nay, tôi như vẫn còn
nghe những âm thanh của núi rừng văng vẳng bên tai; tiếng vượn kêu, tiếng
chim, tiếng gió lướt trên những cành lá chuối.
Nhưng cũng có những lúc không gian hoàn toàn yên ắng, lúc bình
minh và hoàng hôn. Tôi thường tản bộ
trong rừng để quán niệm thiên nhiên là một phần của tôi. Vì xét cho cùng, chúng ta có khác gì thiên
nhiên.
Thí
dụ, tôi dạy về tứ đại: đất, nước, gió và lửa, những thành phần
căn bản cấu tạo nên con người, mà củng cấu tạo nên thiên nhiên. Và khi ta đứng giữa thiên nhiên, không để
bất cứ điều gì làm bận lòng ta, đó là lúc tốt nhất để cảm thấy
ta hoàn toàn liên hệ với thiên nhiên, ta không khác gì với ngoại cảnh
quanh ta.
Cứ
mổi năm qua, hòn đảo của chúng tôi càng trở nên tốt đẹp hơn. Lúc bắt đầu nó chỉ là một khu rừng,
với rắn và chuột. Chúng tôi tạo
nên những lối đi, các khu vườn. Diện
tích đảo không rộng rãi mấy. Chiều
dài của cả đảo chỉ khoảng chừng nửa kílo mét, chiều ngang chừng một
phần tư kílo mét. Nhưng chúng tôi chỉ
cần có thế, chỉ có điều lúc đầu các cô không quen với đời sống
ở nơi hẻo lánh nầy.
Đi
đâu cũng phải cần đến thuyền. Lúc
đầu chúng tôi có một chiếc tam bản chèo bằng tay. Sau một gia đình người Đức cúng dường
một số tiền khá lớn, nên chúng tôi mua đưọc một mô-tơ để chạy đò. Thật là tiện lợi, dầu rằng chúng tôi
cũng phải học bảo trì và chạy máy mô-tơ.
Điều
khó khăn nữa là việc tìm người giúp việc và người nấu bếp, nhất là
những người biết tiếng Anh. Phần lớn
dân bản xứ không thích sống trên đảo, giữa những người phụ nữ nước
ngoài. Cuối cùng tôi tìm đưọc một
phụ nữ rất thích giúp việc cho chúng tôi và đã ở với chúng tôi cho đến
mãi sau nấy. Sau đó bà vẫn thư từ
cho tôi một thời gian dài.
Cuộc
sống của chúng tôi trên đảo coi cũng thơ mộng, nhưng cũng rất vất vả. Chúng tôi phải chịu đựng sức nóng như
thiêu đốt, muỗi mòng và những kỷ luật tôi bắt mọi người phải tuân
theo triệt để. Tôi biết cuộc sống
ở đây đều giúp ích cho hầu hết mọi người.
Thí dụ, có người giờ sống ở Stuttgart, trở thành thư ký
cho trung tâm Buddha-Haus. Một phụ nữ
Hòa Lan, giờ sống và làm việc ở trung tâm Wat Buddha Dhamma ở Uùc. Bà là Giám đốc của Trung tâm. Tôi cũng giao cho bà nhiệm vụ giảng dạy,
và bà đã chấp hành công việc nầy rất tốt, với tất cả tấm lòng.
Tôi
vẫn còn giữ mối liên lạc với các phụ nữ đã sống với tôi trên đảo. Nhiều người sau nầy tổ chức những khóa
tu do tôi hướng dẩn ở các thành phố nơi họ sống. Càng ngày việc hoằng pháp càng trở
thành mục đích của đời tôi.
Tôi
vẫn còn nhớ khóa tu đầu tiên tôi phụ trách ở Aùo. Lúc đó tôi vừa từ Sri Lanka đến. Chỉ có bảy người ghi tên cho khóa tu học,
người ta hỏi tôi như thế có tiến hành không.
Tôi đáp: "Có chứ". Lần
sau khi tôi mở khóa khác, có đến hai mươi lăm người ghi tên. Ở Thụy Sĩ, hồi đó khi tôi thuyết giảng
chỉ có mười hai người đến dự. Ngày
nay hằng trăm người tham dự. Lúc ban
đầu bao giờ cũng thế.
Tôi
đã đi hóa đạo ở Thụy Sĩ, Anh quồc, Hòa Lan và Đan Mạch. Đã thuyết giảng ở Nam Phi Châu, nơi có
một trung tâm Phật giáo rất tráng lệ. Và
dỉ nhiên là tôi cũng trở về Uùc và Mỹ để thuyết giảng. Tiền cúng dường ở khắp nơi, tôi dùng
cho việc bảo quản, duy trì ni viện trên đảo.
Nhờ thế mọi việc cũng ổn.
Năm
1987 là một năm có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ đối với tôi. Việc đầu tiên là tôi đưọc mời tham dự
phái đoàn từ Sri Lanka đến Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước để diễn thuyết. Hầu hết đại diện các nước nhỏ đều
đến, nhưng đại diện của các cường quốc lại vắng mặt. Mỹ và Nga không có đại diện. Lúc đó bức màn sắt chưa đưọc cởi bỏ.
Tôi
nói về sự bình an trong trái tim của mọi người như là một điều kiện
tất yếu để mang lại hoà bình trên thế giới.
Những người hiện diện trong buổi lể hôm đó hình như không
nghĩ rằng tôn giáo và chính trị có thể đi đôi với nhau. Họ đặt khá nhiều câu hỏi sau bài nói
chuyện của tôi. Vào thời đại của
Đức Phật, Ngài đã thuyết giảng cho các vị vua chúa và các quan đại thần. Ngày nay điều đó vẫn còn là một việc
khó làm. Cuối buổi lễ, tôi đưọc
tặng một huy chương vì hòa bình, khiến tôi rất vui.
Sự
kiện thứ hai trong năm đó là đại hội Quốc tế dành cho các vị ni Phật
giáo ở Bodh Gaya, Aán Độ. Đức Đạt
Lai Lạt Ma chủ trì đại hội nầy. Đầy
là lần đầu tiên một đại hội như thế đưọc thành hình, và tôi là một
trong ba phụ nữ đã tổ chức đại hội nầy.
Hai vị kia, là một sư cô người Mỹ theo truyền thống Phật
giáo Tây Tạng, và một nữ giáo sư người Thái.
Chúng tôi đã thành lập nên Sakyadhita (Các Nữ Đệ Tử của Đức
Phật), một tổ chức quốc tế dành cho các ni và các nữ cư sĩ. Kể từ đó, gần như hằng năm tổ
chức nầy đều tổ chức đại hội, cũng như đem lại nhiều chuyển đổi
tốt đẹp cho các vị ni, giúp họ thoát khỏi một số áp lực nặng nề
mà họ phải gánh chịu trước đó, nhất là ở Á châu.
Đáng
kể nhất là tổ chức nầy đã tạo điều kiện để các nữ Phật tử
trên ba mươi nước trên thể giới có thể gặp gở, giao lưu. Chúng tôi đã học hỏi lẫn nhau và về
nhau. Một khía cạnh khác nữa là tổ
chức nầy hoàn toàn ủng hộ việc phụ nữ muốn đưọc thọ giới tỳ
kheo ni (bhikkhunis).
Năm
1988 lại đánh dấu một sự kiện quan trọng khác. Tôi đã bay sang California để tham gia vào
thọ đại giới tỳ kheo ni ở Chùa Tây Lai ở Los Angeles. Đó là lần đầu tiên một buổi lể như
thế đưọc tổ chức ở Tây phương, hơn nữa nó lại đưọc tổ chức hoàn
toàn theo truyền thống với cả hai giới chứng kiến. Có nghĩa là chúng tôi đưọc sự chứng
minh của các vị hòa thượng và các ni sư.
Hai trăm năm mươi vị ni Trung Hoa, năm mươi vị Tăng và mười
hai ni người Tây phương đã đến thọ giới tại đại giới đàn nầy. Chùa Tây Lai đưọc xây theo kiến trúc của
Cấm Thành (Forbidden Palace) ở Bắc Kinh, đã có nhiều buổi họp diễn ra
ở sân trong của chùa. Theo một bảng
thông báo dán trên tường, người ta đưọc biết là chùa Tây Lai cũng vừa
đưọc xây dựng xong với phí tổn gần hai mươi lăm triệu Mỹ kim.
Chương
trình học tập rất gắt gao, kỷ luật như trong quân đội, hầu như tất
cả đều bằng Hán văn. Tuy nhiên
chúng tôi đưọc tiếp đãi rất chu đáo, mọi thứ đều đưọc chu cấp từ
nơi ở, thức ăn cho đến cả y áo. Nếu
ban trách nhiệm Chùa sắp xếp để có ngay các sư cô người Tây phương có
lẻ tốt hơn, vì chỉ có một sư cô nói đưọc tiếng Anh, trong khi mục đích
của Chùa là để truyền bá Phật pháp rộng rãi ở Tây phương.
Sau
bốn tuần lể đưọc huân tập mỗi ngày, với rất nhiều giờ mỗi ngày,
ngày đại giới đàn cuối cùng cũng đến.
Đối với các ni, thì là cả buổi sáng và buổi tối, vì
chúng tôi phải thọ đại giới hai lần -một lần do mười vị lão hòa thượng
hướng dẩn, các vị nầy đã xuất gia ít nhất là ba mươi năm; và sau đó
bởi mười trưởng lão ni, các vị ni đã có hơn hai mươi năm tu tập. Buổi lễ đã đưọc kết thúc tốt đẹp,
dầu rằng suốt cả buổi lể các tăng ni người Tây phương chỉ lờ mờ
đoán chuyện gì đã xảy ra, vì chẳng có ai dịch lại. Chúng tôi chỉ nắm đưọc phần chủ yếu. Tôi rất mừng là buổi lể đã chấm dứt,
vì cả thân thể tôi đau nhừ.
Một
chuyện thú vị tôi vẫn còn nhớ. Ở
Trung Hoa và ở Đài Loan, các tăng ni đều bắt buộc phải ăn chay trường. Nhưng mỗi ngày ở chùa đều có bao nhiêu
thực vật. Bữa thì có gà, bữa cá,
lúc khác là gan. Cho tới một ngày
tôi thu hết can đảm để hỏi sư cô nói tiếng Anh rằng tại sao các món
chay không đưọc dọn lên. Cô nhìn
tôi với vẻ ngạc nhiên và bảo tất cả thức ăn đều là chay. Khi tôi hỏi cô vậy chứ sao có cá, có
gà, thì cô bắt cười. Rồi cô giải
thích là tất cả đều làm bằng đậu nành đưọc chở từ Đài Loan đến
mỗi ngày, vì các thức nầy không có ở tây phương.
Trước
khi tôi bay trở về ni viện ở đảo, tôi ghé thăm Irene một thời gian, vì
tôi không đưọc gặp con gái khá lâu rồi.
Cả tôi và con gái đều rất sung sướng đưọc gặp lại nhau. Tôi cũng có một kỷ niệm đáng nhớ
trong lần gặp gở đó.
Con
gái tôi, Irene đã hỏi tại sao tôi xuất gia.
Nó có thể hiểu nếu tôi chỉ theo Phật giáo, nhưng tại sao phải
xuất gia? Tôi hỏi lại con rằng; Vào
những ngày chủ nhật khi con cùng với chồng đi nhà thờ con có vui không. Nó thưa vâng.
Tôi bảo là tôi muốn đưọc có cảm giác an lạc đó mỗi
ngày, nên tôi xuất gia. Câu trã lời
đó khiến con gái tôi không thắc mắc gì thêm nữa.
Lúc
đó tôi đã có thêm một đứa cháu ngọai, và câu chuyện sau đây liên
quan đến đứa trẻ đó. Irene muốn
có thêm một con gái, đồng thời cũng muốn nhận nuôi một đứa trẻ mồ
côi. Do đó Irene và chồng là Ronny đã
làm đơn xin bão lãnh một em bé mồ côi, người Đại Hàn. Nhưng đã lâu mà chưa nhận đưọc tin trã
lời. Trong thời gian tôi thăm viếng
hai vợ chồng, lại có thư báo là đã có một em bé Đại Hàn cho họ, còn
có cả ảnh đính kèm. Chỉ nhìn bức
ảnh, tôi có thể thấy rõ ràng đó là một em bé bị tâm thần, và tôi cũng
biết rõ là con gái tôi Irene khó thể lo lắng cho một đứa trẻ như thế. May mà lúc đó tôi cũng dự định sẽ bay
sang Đại Hàn để viếng thăm một sư cô người Uùc, là bạn của tôi,
vì thế tôi nhận trách nhiệm đi gặp cháu bé.
Nhờ bạn tôi nói đưọc tiếng Đại Hàn nên tôi có thể giải
thích với văn phòng lo việc bão lãnh con nuôi rằng con tôi không thể nhận
em bé đó, và họ nên tìm một em bé khác thay thế. Lúc đầu chúng tôi cũng gặp khó khăn với
họ, nhưng cuối cùng cũng đưọc kết quả.
Thế là hai tháng sau Amy Jung Ah đưọc gửi theo người bảo mẫu
đến phi trường Los Angeles. Amy không
nói đưọc tiếng Anh nào. Cô bé đã
đưọc năm tuổi và đã sống trong cô nhi viện từ lúc mới sinh ra. Cô bé vừa kháu khỉnh, lại rất ngoan,
không lâu là cháu có thể nói đưọc tiếng Anh.
Giờ thì cô bé đã đưọc mười bảy tuổi, đang học năm cuối
và đưọc xếp vào loại học sinh giỏi ở một trường trung học. Cô lội như ráy, có rất nhiều bạn bè
và năm nay sẽ là lần đầu tiên cô đến thăm bà ngoại. Cô bé đã viết thư nhờ tôi tổ chức
chuyến viếng thăm trại tập trung, vì đó là đề tài cô nghiên cứu ở
trường. Ngoài ra, cô cũng muốn viếng
thăm lâu đãi của Hoàng đế Ludwig.
Không
may, có bao biến động đã xảy ra ở Sri Lanka.
Những cuộc tấn công bằng bơm và các cuộc truy tìm quân khủng
bố khiến cuộc sống ở xứ sở nầy càng trở nên khó khăn. Thí dụ, xe buýt thường hay bị đặt bom
đến nổi không ai dám đi xe buýt nữa. Nhiều
bưu điện bị phá hoại. Thư từ bị
thất lạc, thông tin gián đoạn. Trong
lúc tôi phải tùy thuộc vào hệ thống bưu chính rất nhiều.
Điều
tệ hại nhất là tôi không thể tiếp nhận nhiều phụ nữ ở khắp nơi
trên thế giới muốn đến tu học ở ni viện trên đảo. Vì tôi phải chịu trách nhiệm cho sự an
toàn của họ. Tôi không thể mạo hiểm
làm chuyện đó trong tình hình bất ổn như thế.
Vì thế tôi khuyên họ không nên đến. Và như thế là công việc hoằng pháp của
tôi bị gián đoạn. Một trở ngại
khác nữa là ngay chính các đệ tử người Singhalese của tôi, cũng không
dám ra khỏi nhà. Con đường từ nhà
họ đến đảo cũng rất nguy hiểm.
Rồi
một việc khủng khiếp đã xảy ra. Người
bạn là chủ đồn điền, cũng là người bảo trợ tôi, đã bị nhóm khủng
bố bắt và thiêu sống.
Nhưng
không chỉ có thể, còn có sự ra đi vĩnh viễn của Arthur de Silva. Năm 1988, khi tôi sửa sọan lên đường
đi California, tôi có cảm tưởng rất mạnh mẽ là tôi sẽ không bao giờ gặp
lại Arthur de Silva nữa. Và thật thế,
khi tôi trở lại, ông đã mất. Oâng
bị bịnh tiểu đường mà ăn uống không kiên cữ lắm. Một ngày kia ông ngã té và tắt thở.
Năm
1989, theo yêu cầu của các đệ tử người Đức, tôi quyết định rời bỏ
Sri Lanka, cái chết của Arthur de Silva cũng là một yếu tố khiến tôi cảm
thấy chắc chắn là tôi không còn có duyên ở lại đây nữa.
---o0o---
Mục lục
| Chương 1 | Chương 2 | Chương
3 | Chương
4 |
Chương
5|
| Chương
6 | Chương 7 | Chương
8 | Chương 9| Chương 10|
| Chưong 11 | Chương 12 | Chương 13| Chương 14 |Chương 15|
- o0o -
| Mục lục Tác giả |
- o0o -
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Tâm Kiến Chánh đã gởi tặng phiên bản điện tử tập
sách này
(Quảng Đức, 7-2000)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục