- Bắt Đầu Cuộc Sống Nơi Tu Viện
-
- Sức khỏe là gia sản to lớn nhất
- Biết
đủ là kho tàng quí báu nhất
- Thành
tín là bạn chí thân
- Niết bàn
là hạnh phúc vô biên.
- Kinh Pháp Cú -
204
Trên
trang trại chúng tôi có một ngôi nhà nhỏ.
Nằm dưới những tàng cây to nên bên trong nhà không khí rất
thoáng mát. Các gia đình trong vùng thường
chứa sữa bò vắt trong những căn nhà như thế nầy, cho đến khi thuận tiện
họ mới đến lấy đi. Lúc đó, chưa
có tủ lạnh. Căn nhà chứa sữa của
chúng tôi để trống vì chúng tôi không có nuôi bò sữa. Sau nhiều suy nghĩ, chúng tôi biến nơi đó thành một ngôi nhà thờ nhỏ, một
ngôi nhà thờ cho mọi tôn giáo, vì cho tới lúc đó, chúng tôi cũng chưa biết
phải theo tôn giáo nào.
Các
món quà lưu niệm từ những đất nước chúng tôi đã đặt chân đến giờ
đưọc trưng bày trong ngôi nhà thờ nầy. Từ
các vị thần của Aán độ giáo đến các tượng Phật, hay các tượng thờ
của các dân tộc thiểu số. Từ các
đồ cổ vật cho đến các đồ dùng trong các buổi lể của người Do thái,
các loại đèn, chân đèn cầy cũng đưọc trưng bày ra.
Trang
trại của chúng tôi đưọc gọi là Shalom, tiếng Do thái có nghĩa là
"Hòa Bình". Nơi đây đúng là
một nơi yên tĩnh. Chúng tôi vẫn ngồi
thiền hằng ngày trong ngôi đền nhỏ đó.
Ở
trang trại có rất nhiều việc phải làm. Tôi
luôn bận rộn vỡ đất, nhỏ cỏ, khiêng đá vì tôi thường lo sợ cho sự
an toàn của chúng tôi. Ở Shalom đã bị
nạn cháy rừng, một lần tràn xuống đồi vào thung lũng của chúng tôi. Chỉ có những ai đã từng chữa cháy bằng
các xô nước mới hiểu đưọc sự cực nhọc và nổi lo sợ của con người
trong những trường hợp như thế. Có
cả trăm người hàng xóm đến giúp, chúng tôi mới không bị cháy nhà,
cháy cây và gia súc. Chúng tôi nhốt tất
cả dê, ngựa vào nhà, và nhờ phòng chữa cháy trông hộ. Trong khi cây trái và cả cánh đồng cỏ
thì hoàn toàn nhờ vào những xẻng, xô, bao tải của láng giềng và trí
thông minh của người nông dân.
Phụ
nữ thì mang bánh mì, thức uống, trèo lên các đồi cao mang đến cho cánh
đàn ông. Sau sáu giờ sống trong sợ
hãi, lo lắng, mệt mỏi, khói cay, sức nóng ngột ngạt, chúng tôi đã đẩy
lùi đưọc hiểm nguy. Nhưng sau đó
chúng tôi phải luân phiên canh chừng cháy trong hai ngày, vì mùa hè ở đây
rất dể sinh ra cháy rừng.
Ở
Uùc, khí hậu rất cay nghiệt. Người
gọi mưa là bão. Vì mổi cơn mưa đều
nhanh chóng trở thành bão. Mổi năm
ít nhất một lần đều có bão lũ ở Queensland, cuốn trôi các mái nhà. Mái nhà của tôi chưa bị thổi mất,
nhưng tôi đã từng chứng kiến những thân cây to bị nước cuốn phăng
qua các đồi nứi, dội xuống cánh vườn nhà chúng tôi.
Ban
đầu, các cơn bão nầy đều làm tôi sợ. Nhưng
dần dần tôi cũng quen đi, không còn cảm thấy hoàn toàn bất lực như lúc
đầu. Trang trại của chúng tôi ở chổ
hơi hẻo lánh. Người láng giềng gần
nhất cũng cách hơn kílô mét. Lớn
lên ở thành thị, tôi không hề biết đến những tai hoạ nầy. Chúng đã làm khổ tôi.
Ngoài
ra ở Uùc cũng có nhiều loại rắn độc khiến tôi không yên tâm chút
nào. Phải mãi về sau, tôi mới chấp
nhận đưọc chúng cũng là một phần của đời sống thiên nhiên trên
trang trại.
Đôi
khi tôi cũng hồi tưởng về ngôi nhà ở San Diego, về những ngày sống như
một người nội trợ, trong một cuộc sống bình thường. Dầu tôi không bao giờ mơ ước trở lại
cuộc sống đó, nhưng cuộc sống rày đây mai đó, cuộc sống gần với những
bất trắc, hiểm nguy, xa lạ, cũng đòi hỏi ở tôi rất nhiều sự thích
ứng. Giờ, nhìn lại, tôi có thể
nói rằng trong những lúc hiểm nguy, sợ hãi, người ta chỉ có thể chống
trả lại sự sợ hãi bằng cách tìm nguyên nhân tạo tác ra nó. Nếu không thể làm thế, ta sẽ
không bao giờ biết đưọc sức mạnh của mình, mà trên phương diện tinh
thần thì sức mạnh đó vô bờ bến.
Tôi
đã rèn luyện đưọc lòng tự tin mãnh liệt.
Tôi đã biết con người dầu ở nơi đây, ngôn ngữ là gì, cũng
đều giống nhau. Ai cũng muốn đưọc
hạnh phúc, nhưng không mấy ai tìm đưọc hạnh phúc. Điều đó là sự thật không chối cãi
đưọc.
Cuộc
đời là một quá trình của xả ly. Đó
là những điều tôi nhận thức đưọc ở thời điểm đó. Tôi không tin rằng, tôi có thể hoàn
thành quá trình đó nều không có những chuyến đi mở rộng tầm mắt của
tôi. Tôi không tin rằng tôi có thể
trụ lại ở trang trại nầy dài lâu, nếu tôi đi từ San Diego thẳng đến
đây.
Ở
Shalom, chúng tôi nuôi gà, một đôi công, bảy con dê, hai con ngựa cưỡi,
chó mèo và hai mươi lăm con ngựa Shetland. Về
ăn uống, chúng tôi theo đúng cách hướng dẩn trong các sách về sức khoẻ. Do đó, chúng tôi không uống cà-phê, trà
đậm -chỉ uống nước nấu từ các dược thảo, do chính chúng tôi phơi
khô, và dùng rất ít đường. Thay
vào đó, chúng tôi dùng mật ong nuôi trong vườn. Dùng sữa và bơ làm từ sữa dê, ăn rau
quả do chính chúng tôi trồng, chuối cũng từ vườn nhà, ngũ cốc cũng hoàn
toàn không bị phun thuốc trừ sâu hay bất cứ thứ thuốc độc hại nào.
Dầu
vậy, tôi vẫn bị bịnh thiếu máu. Lúc
đầu, tôi hoàn toàn không biết mình bị bịnh gì. Tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề,
không còn sức lực để trèo lên các cầu thang nhà. Bác sĩ xem bịnh, nói ngay rằng tôi quá
xanh. Oâng bảo là tôi bị bịnh thiếu
máu mãn tính, giải thích rằng căn bịnh đó không thể chữa khỏi. Người ta cứ phải chích vitamin B12 suốt
đời.
Tôi
không hài lòng lắm vì lời chẩn đoán nầy.
Tôi hãy còn trẻ, và không bao giờ tưởng tượng mình có thể
mắc những căn bịnh mãn tính. Tôi tự
chữa trị mình bằng cách bắt đầu ba tháng tuyệt thực, chỉ uống ròng
nước nho. Có nghĩa là cơ thể của tôi
không chứa gì hơn là nước trái cây, hoặc vài trái nho đen. Tôi đã biết về cách chữa trị nầy qua
một quyền sách tôi đã đọc.
Cách
chữa trị nầy thật hiệu nghiệm. Sau
một thời gian, độ máu của tôi đã trở lại bình thường, và giữ đưọc
mãi như thế cho đến ngày nay. Sau lần
giải phẩu ung thư ba năm trước đây, độ máu tôi có hơi bất thường,
nhưng sau đó, tôi lại làm nó trở lại bình thường. Giờ tôi sống cũng như tôi đã sống, hết
sức giản dị, tự nhiên, tránh ăn thịt, là điều quá dể dàng cho tôi.
Một
ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo đến viếng trang trại của chúng tôi. Oâng là người Anh, có tên là Phra
Khantipalo. Oâng không có nhà cửa, nên
chúng tôi mời ông đến tá túc với chúng tôi.
Chúng tôi để ông ở tạm trong phòng dành cho khách quen, trong
lúc Gerd và ông dựng một cái chòi gổ, gọi là kuti, cho ông ở giữa rừng
trên phần đất của chúng tôi. Đưọc
ở cạnh bên ôâng, chúng tôi đã học đưọc rất nhiều điều.
Khi
Phra Khantipalo giảng cho chúng tôi về những giáo lý của Đức Phật, tôi bỗng
nhận ra: những điều đó tôi có thể hiểu và thực hành đưọc. Thí dụ về năm giới. Không đưọc sát sanh; Không trộm cắp;
Không nói dồi hay nói lời dữ; Không uống rượu hay xử dụng ma túy; Không tà dâm.
Người ta có thể thực hành những điều ngược lại: thương
yêu, độ lượng, tín cẩn và trung thành; chánh ngữ và chánh niệm.
Đây
là lần đầu tiên tôi đưọc nghe những điều mà tôi có thể nói là rất
gần gủi, tôi có thể hiểu đưọc ngay, không cần phải suy nghĩ gì. Tôi
biết đó là chân lý, biết tôi phải làm gì để thực hiện chúng. Đây là con đường tâm linh thực sự chỉ
cho ta biết phải thay đổi như thế nào để đạt đưọc sự thanh tịnh nội
tâm. Tôi tổ chức những buổi học
để vị tu sĩ nầy có thể giảng cho tất cả những ai muốn nghe. Ngoài ra tôi cũng mới nhiều vị thầy khác
tham dự nữa.
Hai
chúng tôi tiếp tục lãnh hội nhiều điều tự ngài Phra Khantipalo. Đối với tôi, đây là một dịp may lớn,
giúp tôi tìm ra hướng đi cho mình. Tôi
luôn suy tư về điều đó. Tôi thấy
rất rõ rằng dù cho cuộc sống của chúng tôi lành mạnh, trong sạch, hữu
ích, nó cũng không mang lại cho tôi niềm hạnh phúc, sự bình an mà tôi
luôn kiếm tìm.
Jeffrey
đã đưọc mười tám tuổi, đã dọn về thủ đô Brisbane để theo học
trường đại học ở đó. Con trai
tôi cũng muốn trở thành một kỹ sư điện giống như Gerd, nhưng sau hai
năm, nó đã chuyển qua học vi tính. Vì
Jeffrey học rất giỏi, nên chính phú đài thọ tất cả tiền chi phí ăn học
của cậu.
Một
ngày kia, tôi quyết định bay qua Mỹ, viếng thăm thiền viện San Francisco. Rồi từ đó tôi đến Tassajara, một nơi
rất đẹp trong thung lũng ở phía bên kia dãy núi Carmel, dọc theo bãi biển
California. Nơi đó có các suối nước
nóng và một cái hồ trên núi lớn. Tôi
đã ở đó khỏang ba tháng để học hỏi về thiền Phật giáo.
Thật
là một khoảng thời gian tuyệt vời. Tôi
không phải trả một chi phí nào, vì tôi làm việc ở đó. Công việc của tôi là giữ cho các buồng
tắm đưọc sạch sẻ. Do đó tôi có
thể tắm suối nước nóng tùy thích, lúc nào cũng đưọc. Chỉ có điều ở đây tôi không đưọc
nghe Phra Khantipalo giảng về Phật pháp.
Thiền
Phật giáo dựa vào những giáo lý đưọc truyền từ các vị Thiền sư qua
bao nhiêu thế kỷ. Thiền đưọc truyền
đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ sáu, sau đó, vào thế kỷ thứ mười hai,
thiền có mặt ở Nhật bản. Và ở
đâu thiền cũng đưọc phát triển mà vẫn hoà hợp với văn hóa của
Trung quốc cũng như Nhật bản. Điều
đó cũng đã xảy ra với Phật giáo Tây tạng, Phật giáo vẫn phát triển
theo văn hóa của Tây tạng.
Tôi
theo Phật giáo nguyên thủy, tuân theo những lời dạy của Đức Phật từ
hơn 2500 trước đây. Chúng tôi rất
mong là Phật giáo sẽ đưọc phát triển ở Tây phương để nó trở thành
tự nhiên, bình thường. Phật giáo
có thể đóng góp vào việc làm giàu thêm đời sống tôn giáo ở châu
Aâu, mà vần không đàn áp những tôn giáo hiện hành.
Khi
trở về Uùc, tôi có cảm tưởng rằng Gerd không bằng lòng việc tôi đi vắng
quá lâu. Dầu gì chúng tôi cũng lại
xum họp, và tôi có bao điều để tâm sự với anh. Suy cho cũng, anh cũng rất thích Phật
giáo. Tôi chắc rằng anh cũng mong ước
tôi đã tìm đưọc con đường đi đúng. Nhưng
lúc đó tôi không hề biết rằng anh không có nỗi say mê tìm hiểu về Phật
giáo sâu xa, quyết liệt như tôi. Sau
nầy, tôi mới hiểu sự vắng mặt của tôi khiến anh hiểu lầm là tôi
không ủng hộ mô hình nông nghiệp thiên nhiên của anh. Nhưng lúc đầu, tôi không hề để ý đến
những vấn đề nầy.
Trang
trại của chúng tôi, ngôi đền nhỏ và cái kuti (thất) trong rừng đã lôi
cuốn nhiều vị thầy khác. Họ đến,
nói pháp và dạy chúng tôi nhiều phương pháp tọa thiền.
Tôi
lại bay sang Burma. Vào những ngày đó,
du khách chỉ đưọc phép ở đó bảy ngày.
Sau đó bạn phải ra khỏi xứ, và trở lại với một thông
hành mới. Tôi đã phải làm như thế
đến ba lần. Ba lần bảy ngày tôi
tham thiền ở một trung tâm thiền dưới sự hướng dẩn của các đệ tử
của ngài U Bha Khin, là một cư sĩ. U
Bha Khin là bộ trưởng tài chánh của chính phủ Burma. Oâng có chính sách là chỉ những ai đã
qua một khóa tu thiền với ông, mới đưọc phép làm việc với ông. Theo chổ tôi biết, nhờ chính sách nầy,
mà bộ tài chánh đã làm rất tốt nhiệm vụ của mình.
Từ
Burma, tôi quay trở về nhà. Nhưng từ
đó trở đi, tôi càng vắng nhà thường hơn.
Khi thì tôi tham dự các khóa thiền lúc lại tự mình tổ chức. Đến một lúc, các vị thầy của tôi bảo
rằng chính tôi cũng có thể dạy thiền cho nhiều người khác trên trang trại. Chúng tôi nới rộng nhà để xe ra để
nhiều người có thể tham dự hơn.
Tôi
dự định đến tháng tư, Gerd và tôi sẽ dạy chung một khóa. Gerd đã gửi giấy mời. Anh đã có ý định sẽ dạy yoga cho những
người tham dự.
Nhưng
bốn tuần trước ngày khai mạc, tôi lại đi về phía nam nước Uùc để tổ
chức một khóa thiền khác. Khi tôi trở
về, Jeffrey đứng đợi tôi ở nhà ga xe lửa.
Tôi hỏi: "Ba con đâu?" Nó
trã lời: "Có lá thư đây".
Tôi
không tin những điều xảy ra trước mắt là sự thực. Trong thư, Gerd bảo là anh phải ra đi. Anh tin rằng tôi sẽ tiến xa hơn trong thế
giới tâm linh, nếu như không có anh ở bên cạnh.
Ngày
nay, tôi thấy rằng anh đã nói đúng. Tôi
luôn nghĩ là chúng tôi có thể cùng đi trên một con đường với nhau, và
đúng, chúng tôi cũng đã đi với nhau một đoạn đường khá dài. Nhưng anh không thể dâng hiến tất cả
cho con đường đạo như tôi. Lúc đó,
tôi chỉ biết sợ hãi và giận dữ. Vì
tôi phải làm gì đây với một trang trại mênh mông, hai mươi lăm con ngựa,
máy móc -tất cả những của cải, tài sản của chúng tôi. Gerd không mang theo một thứ gì. Anh chỉ ra đi với chiếc balô trên lưng.
Có
thể cuộc sống ở thôn quê quá nhàn rỗi đối với anh. Chúng tôi đã xây dựng nên cơ ngơi ở đây,
đã đổ bao mồ hôi để tất cả đưọc như ngày nay. Tất cả đã vào nền nếp, không cần phải
thay đổi gì, không cần phải làm gì thêm nữa.
Có lẻ đó là lý do đã khiến Gerd không còn tìm thấy hứng
thú ở lại nơi đây. Anh đã từng
và vẫn còn đến ngày nay, mang tinh thần của người khai hoang. Chúng tôi đã sống trên trang trại nầy tổng
cộng đưọc mười bốn năm.
Đứng
ở sân ga, với lá thư trong tay, ngay trong những giây phút đó tôi đã thấy
rõ ràng tôi không thể tự mình điều khiển trang trại. Và thực tế điều đó đã nhanh chóng
đưọc chứng minh. Bắt đầu là, tôi
không biết xử dụng các máy móc. Thí
dụ, tôi không biết sửa máy bơm nước để bơm nước từ ngoài suối
vào nhà.
Jeffrey
thì đi học ở Brisbane. Cuối tuần
con tôi cũng về để giúp tôi, nhưng nó không quen với công việc ở trang
trại, nên rất khó nhọc cho nó.
Tôi
quyết định bán trang trại. Nhưng
cũng không phải là việc dể làm ở thời điểm đó. Người ta không mua bất động sản vì
kinh tế đang gặp khó khăn. Không ai
có tiền nhiều.
Tôi
bèn bán trước đàn ngựa. Cũng may là
có người mua ngay. Nhưng bạn cũng phải
biết cách chuyên chở ngựa đi. Tôi
chỉ biết cách làm trên lý thuyết, còn thực tế Gerd là người luôn đảm
trách những việc nầy. Kết quả là
đã bị ngựa đá. Đúng là khó
chuyên chở ngựa trên những chiếc xe kéo.
Sau
đó tôi bán những thứ tài sản giá trị khác với giá rẻ, để có thể
thanh toán mọi thứ nhanh chóng. Những
gì không bán đưọc, tôi vứt đi. Trong
lúc hỗn độn đó, tôi đã vứt đi những giấy tờ mà sau nầy tôi rất cần.
Cuối
cùng có một nhóm người thích đời sống thiên nhiên, đã tụ lại thành
câu lạc bộ. Câu lạc bộ nầy muốn
mua lại trang trại của tôi -với một số tiền đặt cọc. Tôi phải làm hợp đồng coi như tôi cũng
là một thành viên trong tổ chức, chỉ như thế công việc mua bán mới tạm
yên.
Tôi
vào ở một tu viện Phật giáo ở Sydney, nơi thầy Phra Khantipalo đang tu. Ở đó có nhà cho các cư sĩ ở. Mổi hai tuần, tôi phải trở lại trang trại
để thu xếp một số công việc ở đó. Đó
là điều không thể tránh khỏi, vì các thành viên câu lạc bộ không biết
điều hành công việc ở trang trại. Tuy
họ thích trở về sống với thiên nhiên, nhưng họ không muốn phải bỏ
công chăm sóc thiên nhiên. Vì thế nhiều
cây trái vườn tược bị hư hỏng, kể cả vườn hồng tuyệt đẹp của
chúng tôi.
Thầy
Phra khantipalo nhờ tôi giúp trong việc thuyết pháp. Lần đầu tiên tôi giảng pháp một mình
ở trang trại -trong căn nhà để xe mà tôi và Gerd đã sửa rộng ra. Có khoảng mười người đến dự, tôi hướng
dẩn họ cách tọa thiền. Tôi rất
vui mừng vì đã có thể đem lại lợi ích cho người khác.
Gerd
có viết thư cho Jeff, báo tin anh đang ở Do Thái.
Nhưng anh không dừng chân lại đó lâu. Sau đó, anh đi khá nhiều nơi. Giờ anh làm chủ bốn mẫu đất ở Nepal,
có hàng trăm cây trồng.
Trong
khỏang nữa năm đó, tôi phải đương đầu với nhiều vấn đề, khiến tôi
cảm thấy phiền não, khổ đau. Một
buổi sáng kia, sau khi thức dậy, mọi việc bỗng vỡ oà ra, như thể trước
đây có tấm màn chắn che trước mắt tôi.
Thật kỳ quặc, tôi nhận ra chính tôi là người tự làm khổ
mình. Tôi chỉ cần nói (hay nghĩ): tất
cả mọi việc hiện hữu như chúng phải hiện hữu, nên dù chúng có thế
nào cũng đưọc.
Ngay
lúc đó, tôi bỏ qua đưọc hết tất cả bao nhiêu chuyện chất chứa trong
lòng khiến tôi đau khổ, chán nản. Nói
cách khác, tôi đã vượt ra khỏi những tình cảm tiêu cực của mình. Từ đó đến nay, tôi chưa bao giờ tự làm
khổ mình như thế nữa. Và tôi đã
có thể, cho đến ngày nay, có khả năng giải thích cho người khác hiểu
đưọc phương pháp thực hành nầy. Nhưng
còn việc họ có thực hành đưọc không, còn tùy thuộc vào sức mạnh
tinh thần của họ.
Cuối
cùng tôi cũng bán đưọc trang trại Shalom của mình. Chúng tôi -câu lạc bộ và tôi- cũng đưọc
ít tiền. Chí ít thôi, vì chúng tôi
bán không đưọc giá. Dầu gì, bao
nhiêu lo âu của tôi đều đã qua đi.
Như
thế là tôi phải dọn đến Sydney. Thầy
Phra Khantipalo muốn xây dựng một tu viện ở trong rừng. Tôi có ít tiền do bán đưọc trang trại,
cộng với gia tài của mẹ tôi, đã mất năm ngoái, để lại. Tôi bỏ hết cả tiền vào việc lập tu
viện, Wat Buddha Dhamma. Thầy Phra
Khantipalo và tôi, sau nhiều tháng kiếm tìm, đã chọn đưọc một nơi thích
hợp ở giữa một công viên quốc gia -bảy mươi hecta, gần bằng diện tích
trang trại Shalom.
Thầy
Phra Khantipalo làm trụ trị. Tôi coi quản
lý, sắp xếp công việc. Và cả hai
chúng tôi đều làm nhiệm vụ giảng dạy. Dần
dần nhiều dãy nhà đưọc xây lên, trong đó có một thiền đường. Một cái thất kuti dể thương đưọc xây
cho tôi trên triền núi. Lần lần có
nhiều kuti khác cũng đưọc cất lên cho những người thích theo đuổi cuộc
sống tâm linh, để tìm đưọc sự an bình cho tâm hồn.
Có
khá nhiều người đến ủng hộ để Wat Buddha Dhamma có thể đưọc duy trì. Tất cả mọi người đều đóng góp vào
kinh phí xây dựng. Đến nay, tu viện
nầy đã có mặt hơn hai mươi năm rồi. Lúc
đầu chỉ có Phra Khantipalo và tôi là thành viên trong hội đồng quản trị. Ngày nay chúng tôi có cả thảy là bốn
thành viên. Một trong các đệ tử của
tôi, đại diện cho tôi.
Từ
đó trở đi, giáo lý của Đức Phật dẫn dắt cuộc đời tôi. Theo giáo lý nầy, ta cần phải thực hiện
bốn điểm chính, như sau:
-Không cho
phép những tư tưởng ác xấu chưa dấy khởi đưọc dấy khởi -nói cách
khác là tránh xa chúng.
-Không duy trì
những tư tưởng ác xấu, mọi khi chúng đã dấy khởi -nói cách khác là
làm chủ chúng.
-Hãy phát khởi
những ý nghĩ thiện chưa dấy khởi -nói cách khác là tìm cách phát khởi
các thiện ý.
-Hãy làm lớn
mạnh hơn nữa những tư tuởng thiện đã đưọc dấy khởi -nói cách khác
là duy trì, phát triển chúng.
Tránh
xa, làm chủ, phát khởi, duy trì: đây là cửa ngỏ đưa đến cuộc sống tâm
linh. Điều đó có nghĩa là ta phải
luôn kiểm soát và làm chủ tư tưởng của ta.
Nếu chúng là các tư tưởng xấu ác, tiêu cực, sân hận, bực
tức, ta cần phải biết là chúng chỉ mang đến cho ta đau khổ, phiền não. Bằng phương pháp tọa thiền, ta dần thay
thế chúng bằng những tư tưởng tìch cực, thương yêu, giúp đở.
Nhưng
điều nầy không phải có thể dể dàng thực hiện ngay. Không đơn giản như thế. Ta cần phải tu học phương pháp thực hiện
điều nầy. Trong quá trình chuyển đổi,
ta cần phải đi từng bước. Phải dần
bỏ các tư tưởng tiêu cực, và thay thế chúng bằng những tư tưởng tốt
đẹp: Hãy nghĩ đến một cánh đồng
đầy bông hoa, một mảng âm nhạc ru hồn. Hay
bạn có thể nghĩ đến những người bạn thương yêu. Như thế, bạn có thể hướng tâm mình đến
những điều có thể đem lại niềm vui cho tâm bạn, tình cảm bạn.
Khi
đã thực hiện đưọc những điều nầy, bạn
có thể trở lại với tư tưởng ban đầu và cố gắng chuyển đổi chúng. Nếu bạn thấy bực tức với ai. Hãy nghĩ đến những tánh tốt khác của
họ.
Muốn
thấu hiểu đưọc những giáo lý của Đức Phật, cũng như trong quá trình
phát triển tâm linh, ta cần phải thực hiện đưọc những điều trên. Ngay từ lúc chưa có đưọc sự hiểu biết
thấu đáo về Phật pháp, tôi vẫn nhận thức đưọc điều đó. Tôi tự biết rằng việc mình tự làm khổ
mình là một hành động điên rồ, nhưng hình như ai cũng dể dàng mắc phải.
Trong
những ngày còn sống ở Thượng Hải, ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, tôi
đã tranh đấu với chính tôi, để tận trong thâm tâm, tôi không còn lòng
thù hận họ, mà có thể hàn gắn với đất nước Đức, người Đức. Tôi đã nghĩ rằng những tư tưởng
hận thù không có lợi ích gì hơn là những đám mây đen che phủ cuộc đời
tôi. Sau nầy tôi tìm thấy những điều
tôi đã mơ hồ nghĩ đến đưọc giải thích rõ ràng trong các kinh điển của
Đức Phật.
Bốn
yếu tố quan trọng trên (Tứ Chánh Cần) nằm trong ba mươi bảy phẩm trợ
đạo đưa ta đến Giác Ngộ giải thoát. Không
có khóa tu nào, bài giảng nào, mà tôi không lồng vào đó những lời dạy
chí thiết nầy. Một khi bạn đã thực
hành nhuần nhuyễn, chúng trở thành thói quen khiến ta không bao giờ để các
tư tưởng xấu ác có thể dấy khởi. Ta
xa lánh chúng. Không có nghĩa là ta đè
nén chúng.
Hiện
nay nhiều người lập luận rằng: Ta không nên đè nén gì cả, ta cần phải
để mọi thứ trong ta tuôn tràn. Đóù
là lối suy nghĩ của nhiều người. Nhưng
ở đây không phải là vấn đề của đè nén, mà là xa lánh, tránh xa. Trong mổi con người đều có cái tốt,
cái xấu. Nếu ta chỉ vun trồng cho
cái tốt, thì một ngày kia cái xấu sẽ biến mất.
Một
khía cạnh quan trọng nữa trong giáo lý của Đức Phật là thái độ xả
ly. Con đường đưa đến việc thực
hành xả ly nằm trong năm điều sau. Mổi
ngày ta cần suy gẫm về chúng:
- Tôi cũng sẽ bị hư hoại, không thể trốn tránh điều đó.
- Tôi cũng sẽ bị bịnh hoạn, không thể trốn
tránh điều đó.
- Tôi cũng sẽ chết đi, không thể trốn
tránh điều đó.
- Tất cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu,
đều sẽ đổi thay, hoại diệt.
- Tôi làm chủ nghiệp của mình, là kẻ thừa
hưởng nghiệp do mình tạo ra, dù là tốt hay xấu.
"Tất
cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu đều thay đổi" rất đúng khi
áp dụng vào các mối liên hệ cha mẹ, con cái hay vợ chồng. Con cái từ lúc ta sinh chúng ra, chúng đã
không ngừng thay đổi. Rồi chúng có
thể biến khỏi đời ta bất cứ lúc nào. Các
liên hệ giữa những người yêu nhau cũng thế.
Rõ
ràng không có ai trong chúng ta nghĩ là con cái hay người ta thương thuộc sỡ
hửu của ta. Tuy nhiên tình cảm ta
thì nghĩ như thế về họ, và luôn muốn ràng buộc họ. Vì thế đã có nhiều vấn đề về tình
cảm xảy ra trong các gia đình.
Chúng
ta muốn điều khiển người thân của mình.
Chúng ta nghĩ là mình có thể quyết định việc phát triển của
con cái, có thể quyết định những gì con cái mình phải làm hay không nên
làm. Chúng ta không những muốn sở hữu
con cái hay người thương, mà còn muốn họ phải sống theo ý ta muốn, làm
theo những điều ta đòi hỏi, mong đợi ở họ.
Nhưng tất cả đều là hoài công.
Chúng
ta phải thực tập xả ly nếu ta muốn đưọc sống và thương yêu trong sự
tự do. Đức Phật đã nói, thân nầy
không thuộc ta, thì làm sao người khác có thể là ta? Mổi người tự tạo nghiệp cho mình.
Ở
đây tôi muốn giải thích thêm về một phần trong giáo lý của Đức Phật,
có liên quan trực tiếp đến tôi -và như tôi biết qua kinh nghiệm- cũng liên
quan đến rất nhiều người khác.
Tình
yêu cao thượng không đòi hỏi sự sở hữu, mà chỉ có ban phát rộng
rãi. Qua thời gian, tôi càng thấm
thía với những điều nầy sâu xa hơn.
Vào
năm 1979 tôi quyết định xuất gia. Cho
đến thời điểm đó, tôi đã khá từng trãi, để nhận thấy rằng tất
cả mọi thứ trên cõi nầy đều không thể mang đến hạnh phúc cho ta. Trong các cuộc hành trình, tôi đã hiểu rằng
sự tĩnh lặng, an bình không phải do những thắng cảnh tuyệt vời trên
trái đất mang đến cho ta. Chúng chỉ
có thể đưọc tìm thấy trong trái tim ta.
Giờ
tôi đã sẳn sàng để dâng hiến cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp
nhất.