- Dẩu bay lên không trung, lặn dưới đáy bể
- Chui vào hang sâu núi thẳm
- Không có nơi đâu trên thế gian nầy
- Người ta có thể trốn khỏi tử thần.
- Kinh Pháp Cú
-128
Đối
với tôi, chết là điều đương nhiên. Tôi
đã chuẩn bị để ra đi.
Vị
bác sĩ giải phẫu đã bảo rằng ông rất ngưỡng mộ tôi. Để làm gì?
Chỉ vì tôi không bị đe dọa bởi cái chết?
Tôi
luôn xem Đức Phật là tấm gương cho mình -lúc Ngài tại thế cũng như lúc
cận kề cái chết, đó là lý tưởng sống của tôi.
Hai
ngàn năm trăm năm về trước, Ngài đưọc sinh ra là thế tử của một vị
vua ở Bắc Aán Độ. Phụ thân của
Ngài cai trị một nước lớn. Ngay từ
khi ấu thơ, người ta đã tiên đoán rằng Ngài sẽ trở thành một vị vua
tài trí hoặc nếu như Ngài từ bỏ cuộc sống thế gian, Ngài sẽ trở
thành một vị Phật (Buddha). Phật
có nghĩa là người đã Giác Ngộ. Đó
là danh hiệu của Ngài. Lúc còn là
thái tử, Ngài đưọc gọi là Siddhartha Gautama.
Bên cạnh những sự kiện lịch sử, cuộc đời Ngài cũng đầy
những huyền thoại.
Vua
cha muốn con trai phải kế thừa ông hơn là từ bỏ cuộc sống thế gian. Vì thế vua cha tìm đủ mọi cách để làm
cho cuộc sống quanh Ngài đầy quyến rủ. Người
già, người bịnh không đưọc phép bén mảng tới cung vua. Ngay cả những chiếc lá lìa cành cũng
đưọc dọn dẹp trước khi Thái tử Siddhartha nhìn thấy chúng.
Tất
cả mọi thứ đều để cung phụng cho Thái tử.
Những thứ có thể so sánh với thế giới của chúng ta ngày
nay, trong đó chúng ta cũng tìm đủ mọi cách để đưọc sung sướng. Nhà cửa, TV, đầu máy, điện thoại,
radio -mọi thứ đều đưọc cung ứng để thõa mãn mọi nhu cầu của
chúng ta. Nhưng mà thực tế thì sau một
thời gian, chúng ta cũng không còn thấy chúng hấp dẩn nữa.
Thái
tử Siddhartha kết bạn bè với nhiều thanh niên, thiếu nữ. Năm mười sáu tuổi, Thái tử đưọc quyền
chọn người phối ngẫu. Sau đó hai vợ
chồng Thái tử sống trong cung điện, và không nhìn thấy gì khiến họ phải
lo buồn.
Cũng
giống như ngày nay chúng ta giấu những người bịnh hoạn, tàn tật sau những
bức tường mà không ai có thể thấy họ; còn đối với người chết, thì
ta cắt bỏ bộ phận tiêu hóa, trang điểm lại trước khi chôn họ.
Một
ngày kia thái tử Siddhartha bảo người đánh xe rằng ngài muốn đi dạo một
vòng bên ngoài, trước cung điện. Điều
đầu tiên, khi ra ngoài, họ nhìn thấy là một ông lão rất già yếu, chống
gậy, mà hầu như không thể lê bước.
Thái
tử Siddhartha hỏi: "Sao người đó coi tiều tụy thế?". Người đánh xe, Channah, thưa: "Đó là
một người gìa, thưa thái tử." Thái
tử lại hỏi: "Tất cả chúng ta đều phải già sao?" Channah lại thưa: "Đương nhiên,
thưa thái tử. Tất cả chúng ta đều
phải già đi".
Họ
lại trở về triều, rồi ngày hôm sau một cuộc du ngoại khác lại xảy
ra. Lần nầy họ nhìn thấy một người
bịnh nằm trên đường. Oâng quá yếu
để có thể nhấc ly nước để cạnh bên lên uống. Đám ruồi nhặng bu đầy trên mặt, nhưng
người bịnh không thể làm gì ngoài kêu rên.
"Người
đó bị làm sao vậy?", thái tử Siddharta hỏi.
"Đó
là một người bịnh".
"Chúng
ta có bị bịnh như thế không?"
"Không
ai tránh khỏi đưọc, thưa thái tử", Channah lại trã lời.
Người
thứ ba Thái tử Siddhartha đưọc gặp trong lần ra thành thứ ba là một người
chết. Xác người chết đưọc khiêng
đi và phía xa là gia đình, quyến thuộc, bạn bè khóc lóc, kêu than. Họ đang trên đường đến nơi hỏa táng. Thái tử muốn biết: "Tất cả chúng
ta đều phải đến đó sao?" Channah
lại thưa: "Nơi đó chờ đợi tất cả chúng ta".
Vào
ngày thứ tư, khi Thái tử Siddhartha lại ra khỏi thành. Lần nầy Thái tử
đưọc gặp một người với vẻ mặt đầy bình an, không lo lắng.
"Người
đó là ai vậy?"
"Thưa
đó là một vị tu sĩ, người đã xa lánh cuộc sống thế tục",
Channah thưa.
Thái
tử Siddharta Gautama trở về nhà, đêm đó, thái tử từ giã vợ, cùng đứa
con mới sinh, cha mẹ, và lầu đài cung điện để đi tìm câu trã lời cho
những đau khổ của loài người. Cùng
với Channah, thái tử ra đến bìa thành, ranh giới của vương quốc của
vua cha. Tới đó, thái tử trao trả ngựa
lại cho Channah và nói: "Hãy mang nó trở về thành và chăm sóc nó cho tốt".
Theo
truyện kể, con ngựa chỉ quay đi một đoạn đường ngắn trước khi ngã
ra chết vì đau đớn phải xa chủ.
Sau
đó Thái tử dùng gươm cắt tóc, vào rừng đi tìm một vị minh sư. Trước khi thành Phật, Thái tử đã tu khổ
hạnh trong sáu năm. Khi ngài đã tu chứng
đưọc các trạng thái thiền định, Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ đề nổi
tiếng giờ là Bodh Gaya và đạt Giác Ngộ, giải thoát. Ngài đã thiết lập ra Tứ Diệu đế và
các phần của Bát Chánh Đạo, là nền tảng của giáo lý của Ngài. Vị trời Phạm thiên và các chư thiên hiện
ra, thỉnh cầu Ngài truyền đạo lại cho chúng sanh.
Trong
khuôn khổ quyền sách nầy, tôi không thể nói chi tiết câu chuyện nầy. Chi tiết câu chuyện có thể tìm trong quyển
Buddha Ohne Geheimnis (tạm dịch là Sự Thật về Đức Phật) của tôi.
Tuy
nhiên, ở đây, dù tóm tắt, ta cũng thấy từ câu chuyện của cuộc đời
Đức Phật, giáo lý của Ngài đặt căn bản từ đâu. Ta phải biết rằng Dukkha, tiếng Pali có
nghĩa là đau khổ, lo âu, bịnh hoạn, và chết chóc. Hiểu như thế rồi, ta sẽ thấy cuộc đời
ta, tự ngã của ta đều chỉ là những ảo vọng.
Nhưng
không thể nhận ra điều nầy chỉ bằng các giác quan, hay cách suy nghĩ thông
thường của ta. Mà phải qua những trạng
thái tâm thức khác, là kết quả của thiền định -sự chú tâm hoàn toàn
không có suy tưởng.
Qua
đó, chúng ta sẽ thấy sự hiện hữu của mình không phải tách rời khỏi
vũ trụ. Chúng ta với mọi người
chung quanh, với vũ trụ là một. Do đó,
chúng ta có thể giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của lòng ham danh, ái
dục vân vân. Tới một mức độ nào
đó, chúng ta sẽ thấy sự có mặt của ta ở nơi đây hay nơi khác không
còn quan trọng nữa. Có nghĩa là ta sẽ
không còn lo sợ Chết.
Muốn
đạt đưọc tất cả những điều đó, ta chỉ cần buông bỏ một thứ
luôn gắn chặt với ta -đó là tự ngã.
Chúng
ta sống, chúng ta chết cũng như bao nhiêu người đã sống trước đó, hay
sau nầy, không có gì là của ta cả. Khi
ta đã thành công trong việc diệt bỏ lòng ham muốn, tham vọng, thì chết
không còn là sự hủy diệt, mà là sự hòa nhập vào Niết bàn.
Để
cách nhìn đó thành quán tính trong ta, ta cần phải không ngừng tu tập.
Mùa
hè sau cuộc giải phẫu, tôi đưọc rất nhiều người thăm viếng. Con gái tôi Irene từ Mỹ bay qua, cùng đi với
tôi qua Ý. Sau hơn hai mươi năm, đó
là lần đầu tiên chỉ có tôi và con gái ở bên nhau. Trước đó, lúc nào cũng có con cái. Chúng tôi không có dịp để nói chuyện tự
do. Chúng tôi đặt phòng ở một
khách sạn ở Lago Maggiore, rồi cùng du ngoạn trên thuyền, bách bộ với
nhau. Chúng tôi cảm thấy bình an và
có thì giờ dành cho nhau. Thật là một
chuyến đi tốt đẹp.
Rồi
Gerd, chồng trước của tôi cũng đến viếng thăm. Anh muốn biết về sức khỏe của tôi. Đó cũng là chuyện tốt. Chúng tôi đã chia tay từ năm 1979. Anh đến thăm, và lập tức ra chăm sóc
khu vườn.
Cũng vui khi thấy anh không thay đổi gì -lúc nào cũng năng động,
linh hoạt.
Rồi
Matthew, đứa cháu ngoại đầu của tôi, cũng viếng thăm tôi cũng với vợ
là Lara. Tôi đặc biệt thân thiết với
cháu Matthew. Trong cả gia đình, hình
như chỉ có cháu là hoàn toàn thông hiểu việc tại sao bà ngoại xuất gia
theo Phật giáo.
Điều
nầy gợi tôi nhớ lại, lúc còn thơ ấu, tôi cũng rất yêu thương bà
tôi. Tôi cảm thấy sự thân thiết giữa
người trẻ nhất và lớn tuổi nhất trong gia đình rất quan trọng. Giúp người ta biết nguồn gốc tổ tiên,
cũng như thế hệ tiếp nối.
Con
trai tôi Jeff từ Uùc qua, cùng với vợ và đứa con gái nhỏ. Họ rất muốn thăm Venice. Nên chúng tôi cùng đến đó, nhưng không
may là thời tiết không đưọc đẹp. Tuy
nhiên tôi cũng giữ cháu bé để hai vợ chồng đi viếng cảnh. Jeff đã cùng tôi đi khắp nơi, nhưng lạ
lùng thay, nó chẳng còn nhớ đưọc gì mấy!
Cả gia đình ở lại mừng sinh nhật tôi.
Vào
ngày 25 tháng 8, năm 1993, tôi đưọc bảy mươi tuổi. Một buổi tiệc vui vẻ với nhiều lời
chúc tụng, đó là chuyện tự nhiên vào những dịp như thế nầy.
Tôi
nhận đưọc một món quà rất đặc biệt của thầy Nyanabodhi: một ngôi
tháp, do chính thầy xây. Đây là một
lăng mộ dùng để chôn người theo Phật giáo, có hình dáng giống như một
toà nhà trắng. Ngôi tháp nầy có một
miếng gương đá lớn, trong suốt đặt trên đỉnh tháp. Vào ngày sinh nhật của tôi, chúng tôi
cùng đi thăm ngôi tháp.
Trên
vách tháp có chừa một khỏang trống. Tất
cả những ai đến dự ngày sinh nhật của tôi có thể đặt một tượng
Phật nhỏ vào đó. Những tượng nầy
họ nhận đưọc do đã cúng dường cho Buddha-Haus. Một copy của tất cả các sách của tôi
cũng đưọc đặt vào đó. Ngoài ra,
chúng tôi cũng bỏ vào đó các món đồ qúi gía, vàng bạc. Cuối cùng, thầy Nyanabodhi cũng bỏ vào
chiếc nhẫn vàng của người cha quá cố của thầy. Chúng tôi không có nhiều đồ quý giá nhưng
những gì chúng tôi có, chúng tôi bỏ cả vào.
Một
ngày nào đó, tro của tôi cũng sẽ đưọc bỏ vào. Đó là cách chôn một vị thầy theo phong
tục cổ truyền. Cẩn thận hơn, tôi
cũng đã làm đơn xin phép bộ y tế ở Sonthofen.
Họ cử hai viên chức đến, khám xét trong ngoài, sau đó viết
cho chúng tôi một giấy phép tay.
Ngôi
tháp đưọc xây dựng ở một vị trí rất đẹp, cạnh bên một cây táo
nhỏ trên cánh đồng thoai thoải. Ánh
sáng mặt trời chiếu qua mảng gương đá tạo thành những màu sắc tuyệt
đẹp. Tôi rất thích ngồi trên băng
đá cạnh đấy.
Ngoài
ra còn có một sự kiện khác cũng làm tôi rất vui. Đó là sau khi Brigitte, một tờ tạp chí ở Đức có bài đăng về
tôi, thư từ của đọc giả từ những nơi không ngờ nhất cũng đưọc gửi
đến. Hai người bạn học cũ của tôi
ở trường trung học State Augusta, Bá Linh viết thư đến. Chúng tôi thường đi học chung từ lúc
chín tuổi đến năm mười hai, mười ba tuổi.
Một người viết từ Bá Linh, người kia ở Heidenheim. Người thứ hai còn sắp xếp để tôi đến
thuyết pháp ở Heidenheim cho khỏang ba trăm rưỡi thính giả. Rồi người bạn ở Bá Linh lại giúp tôi
liên lạc với người bạn thân nhất thời học sinh của tôi, hiện đang
sinh sống tại Anh.
Hiện
tại, với tuổi tôi, tôi thấy sức khỏe của mình không có gì đáng phàn
nàn. Nếu tôi còn sống cũng tốt, mà
có phải ra đi, cũng đưọc.
Việc
cận kề với cái chết đã giúp tôi có thể giảng Pháp hoàn toàn vì
Pháp, mà không có cái gì cho riêng tôi. Tôi
không chỉ thấy mình không quan trọng, mà còn có cảm giác như mình không
có mặt ở đó, mà mình chỉ là công cụ truyền giảng lại những điều
có thể làm lợi ích cho người khác.
Tôi
sẽ sống cho đến ngày tôi phải ra đi. Cho
đến giây phút nầy, hầu như tôi đã hoàn tất mọi việc phải làm. Chỉ còn một, hai quyển sách tôi muốn thấy
chúng đưọc hoàn thành, nhất là quyển kinh Trung Bộ của Đức Phật,
đang rất cần có một bản dịch ra tiếng Đức mới hơn. Vậy thôi, còn mọi thứ có thể tiếp tục
mà không cần đến sự có mặt của tôi.
Trong
chương nầy tôi nói khá nhiều về cái chết vì lòng sợ hãi về cái chết
là đề tài thường đưọc nhiều người hỏi đến ở các buổi nói chuyện
của tôi. Tôi luôn phải đối đầu với
đề tài nầy. Một khi ta còn chưa có
thể sẳn sàng chờ đón cái chết của mình, chưa có thể nói về nó với
lòng bình thản, tự tại, thì cuộc đời ta vẫn còn bị trói buộc trong sự
sợ hãi. Tâm ta chỉ thực sự có an
bình khi ta có thể chấp nhận mọi sự khi chúng đến.
Đức
Phật có dạy một số điều liên quan đến cái chết, khá hữu ích. Điều quan trọng nhất là: Khi một người sắp từ gĩa cõi đời, ta
cần nhắc nhở cho họ về tất cả những điều tốt họ đã làm, để họ
có thể ra đi với tâm bình yên, hạnh phúc.
Điều đó rất quan trọng vì trong những giờ phút cuối cùng,
người ta thường bị xâm chiếm bởi những cảm giác ăn năn, hối hận vì
đã làm điều nọ, điều kia không đúng. Nếu
bạn là người y tá hay bác sĩ ở cạnh bịnh nhân, nhưng không biết nhiều
về họ, bạn cần hỏi thân nhân họ để có thể giúp họ ra đi nhẹ nhàng.
Chúng
ta cũng cần phải có tiếp xúc trực tiếp -như nắm tay người sắp chết
hay ve vuốt họ, để họ không có cảm giác đã bị bỏ rơi.
Thính
giác là giác quan cuối cùng ra đi. Vì
vậy đừng nghĩ rằng người đang nằm mê man đó không thể nghe chúng ta
nói gì. Chỉ nói trước mặt họ, những
điều bạn muốn họ đưọc nghe.
Nếu
người sắp chết là Phật tử, có lòng tin ở Đức Phật và giáo lý của
Ngài, thì ta có thể tụng kinh cho họ nghe. Có
nhiều bài kinh rất phù hợp cho mục đích nầy.
Thí dụ: "Ngay chính xe mã của nhà vua còn bị hủy diệt;
thân nầy cũng mau chóng bị hủy diệt. Nhưng
những lời dạy của các bậc Giác Ngộ chẳng bao giờ bị mai một. Những lời dạy của bậc Giác Ngộ đưọc
lưu truyền bởi những người hiểu đạo".
Điều đó có nghĩa là ta có thể nói rằng ai rồi cũng chết. Nhưng thân mạng không phải là cái quan trọng
bậc nhất. Tâm và ý thức về chân
thiện mỹ còn quan trọng hơn. Chúng sẽ
không bao giờ bị hủy diệt.
Chết
không có gì hơn là một sự chuyển đổi. Chúng
ta nhẹ nhàng chuyển đổi qua một trạng thái hiện hữu khác. Dỉ nhiên sự chết chỉ xảy ra nhẹ
nhàng nếu ta không cưỡng lại nó -và nếu chúng ta không phải chịu đau
đớn.
Có
một thời gian, các vị pháp sư giảng về Phật pháp, cho rằng người ta
phải ra đi trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, và vì lý do đó, không
nên cho người bịnh dùng các loại thuốc giảm đau. Nhưng điều đó có vẻ trái ngược với
lời Đức Phật dạy rằng người ta cần đưọc ra đi với tâm yên tĩnh. Làm sao người ta có thể yên tĩnh ra đi
khi đang phải chịu đau đớn? Ở các
nơi chăm sóc cho người bịnh của Phật giáo, người ta cũng tìm mọi cách
làm cho bịnh nhân đưọc bớt đau đớn. Vì
thế nếu cần ta vẫn phải dùng đến các loại thuốc giảm đau, dầu có
làm cho người bịnh mê man. Tâm thức
lúc nào cũng có mặt dù rằng người bịnh có thể không trã lời ta hay
có vẻ bất động. Thật là sai lầm
nếu cứ để người sắp ra đi phải chịu đau đớn -điều đó chỉ làm
cho tâm họ rối bời, bất an.
Đức
Phật còn khuyên rằng, ta cần phải đợi ba ngày trước khi chôn xác, vì
tâm thức cần thời gian để lià bỏ xác thân nó từng ẩn náu.
Người
Phật tử cũng nghĩ rằng nếu đưọc chết ở nhà trong một khung cảnh
quen thuộc, ấm cúng thì tốt hơn. Những
người thân cần có mặt và phải hiểu rằng họ cần nói lời từ gĩa với
người sắp chết, như một lời chúc lành trước khi họ ra đi. Nói với họ rằng dù ta có nhớ nhung tiếc
nuối họ, nhưng ta hoàn toàn có thể tự lo khi không có họ ở bên cạnh. Rằng ta rất thương yêu họ, nhưng ta phải
tiếp tục cuộc sống. Những lời
nói như thế rất quan trọng đối với người sắp chết. Không nên níu kéo họ, vì như thế chỉ làm
cho sự ra đi của họ thêm khó khăn.
Trong
các bịnh viện của Thiên Chuá giáo, tôi nghĩ là chắc họ cũng làm như thế.
Trước
đây, có một phóng viên đến chổ chúng tôi ở Buddha-Haus. Cô hỏi có phải lý do khiến tôi có thể
dể dàng chấp nhận cái chết của mình là vì tôi tin có luân hồi. "Không", tôi trã lời cô,
"Tôi không nghĩ như thế. Người
ta chỉ phải tái sinh nếu có ý muốn đưọc tái sinh. Khi không còn ý muốn hiện hữu như một
tự ngã, thì không còn gì xảy ra nữa. Tôi sẳn sàng ra đi một lần cho tất
cả".
"Rồi
việc gì sẽ xảy ra", cô phóng viên muốn biết. "Không có gì cả. Tất cả đã chấm dứt. Lúc đó, người ta đã đạt đưọc đến
Niết bàn, sự an bình tuyết đối".
Loại
thiền định sâu xa hoàn hảo nhất.
---o0o---
Mục lục
| Chương 1 | Chương 2 | Chương
3 | Chương
4 |
Chương
5|
| Chương
6 | Chương 7 | Chương
8 | Chương 9| Chương 10|
| Chưong 11 | Chương 12 | Chương 13| Chương 14 |Chương 15|
- o0o -
| Mục lục Tác giả |
- o0o -
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Tâm Kiến Chánh đã gởi tặng phiên bản điện tử tập
sách này
(Quảng Đức, 7-2000)
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục