Luận
ba
GIÁC
NGỘ VÀ VÔ MINH
I.
BỔN CHẤT CỦA TRI GIÁC BỒ ĐỀ
Dầu
quái dị đến khó tưởng tượng, nhưng hiển nhiên là vậy:
các nhà học Phật quá mài miệt nghiên cứu giáo lý của Phật,
và luận giải của chư tổ, mà lơ là hẳn việc khảo sát
thẳng vào bài học nội chứng của Phật. Tôi thiết tưởng
điều khẩn yếu cần thâm cứu trước hết để thấu triệt
tư tưởng của Phật là phải khám phá ngay vào bổn thể của
sự tự giác ấy mà kinh điển nói rằng Ngài hoát nhiên ngộ
đạo khi vào đại định - tam muội tam bồ đề.
Những
gì Phật dạy lại các đệ tử chẳng qua chỉ là phần tinh
luyện của trí thức Phật nhằm chỉ cho môn đệ thấy và
thành những gì Ngài đã thấy và đã thành. Kết quả thuần
trí thức ấy, dầu được trình bày dưới hình thức triết
lý nào, vẫn không lột được tinh thần của sự tâm chứng
ấy của Phật. Bởi vậy, muốn nắm lấy yếu chỉ của Phật
giáo - tức nội dung của Giác Ngộ - ta phải sống thân thiết
với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo, vì do
sự tự chứng ấy Phật mới là Phật, và là giáo chủ của
một hệ thống đạo mang tên Phật. Vậy thử xem kinh điển
ghi chép sự chứng nghiệm ấy như thế nào, do đâu mà có,
và hậu quả (1) ra sao.
Trong
Trường bộ kinh, phẩm Đại bản (2), có đoạn Phật thuyết
về sáu vị Phật quá khứ ra đời trước Ngài. Đại khái
tiểu sử các vị Bồ Tát và Phật ấy đều hao hao giống
như tiểu sử của Phật, trừ vài chi tiết phụ thuộc, vì
người ta lập luận rằng chư Phật đều giống nhau hết ở
bổn hạnh. Nên khi Thích Ca, Phật của Kiếp hiện tại, thuyết
về chư Phật kiếp quá khứ, thuật lại sự tự giác của
các cổ Phật, Thích Ca thật ra chỉ tổng kết lại cuộc giáng
sanh của ngài ở cõi trần, và mọi chi tiết Ngài thuật lại
về chư cổ Phật đều có thể coi là của chính Ngài, ngoại
trừ vài điểm về huyết hệ, giai cấp xã hội, chỗ sanh,
thọ mạng, v.v... Nhất là sự tâm chứng của Ngài, gọi là
Ngộ (3) càng đặc biệt giống hệt.
Khi
chưa đắc đạo, và còn là Bồ Tát, Phật yên lặng nhập
định, tư tưởng sau đây đến với Phật:
“Thế
giới nầy thật là điên đảo: người ta sanh ra, rồi lớn
lên, rồi già chết, rồi bỏ xác thân nầy trở lại một
xác thân khác.
Trầm
luân trong khổ não, có ai tìm ra được con đường giải thoát,
huống nữa là giải thoát già nua và tử biệt. Ôi, biết bao
giờ mới thoát khổ, thoát sanh lão bệnh tử?”
Nghĩ
vậy, Bồ Tát luận rằng vì có lão nên có tử, vì có tử
nên có sanh, vì có sanh nên có hữu, vì có hữu nên có thủ,
vì có thủ nên có ái, cứ thế, theo dòng nhân duyên, Ngài
đi đến danh sắc (namarupa) và thức (vinnana) (4). Rồi Bồ Tát
tiếp tục hết dõi ngược đến lội xuôi suốt dòng nhân
duyên của khổ, từ hiện hữu đến dứt hiện hữu, thì Bồ
Tát bỗng dưng mở con mắt huệ, thấy rõ những việc từ
trước chưa bao giờ thấy, đắc tri kiến, đắc giác ngộ.
Thế
rồi Ngài reo to: “Ta đã thấu được pháp thâm diệu, khó
nhận, khó hiểu, vắng lặng, tuyệt vời, không biện giải
gì được, tinh tế, chỉ có thánh nhân mới hiểu được.
Nhưng người đời thích bám níu vào chỗ ưa thích; mà đã
bám níu, đã ưa thích, thì bị trói buộc trong ưa thích, làm
sao rõ lẽ cái nầy sanh ra từ cái kia, và tất cả điều diễn
ra trong vòng nhân quả. Và cũng rất khó nhận định tại sao
phải chấm dứt hết tạo tác trong đời, phải đừng gây
nghiệp tái sinh, phải xả trừ hết bám níu, phải diệt hết
mê luyến, phải tịnh tâm, phải chứng Niết Bàn”.
Rồi
đức Phật tuyên xứng bài kệ sau đây, ngụ ý ngần ngại
trong ý định phổ truyền đạo pháp cho thế gian - cái Pháp
mà Ngài vừa tâm chứng, Ngài thấy tận mắt, không qua một
sự học hỏi cổ truyền nào:
“Cái
ấy, trải bao công khó, mới hàng phục được.
Thế
là xong! Ích lợi gì ta đem ra truyền bá?
Người
đời vốn mê đắm trong tham sân
Làm
sao lãnh hội được Pháp (chân lý) ấy!
Đối
với nếp cảm nghĩ của thế gian,
Pháp
này thâm diệu, thù thắng, nhiệm mầu,
Làm
sao truyền được cho loài người bị si mê trói buộc đắm
chìm trong đêm tối của vô minh.(5)
Đó,
theo các nhà trước thuật Nikaya thuật lại, và cũng được
nhiều văn liệu khác xác nhận, ta thấy rõ sự Giác Ngộ bừng
lên tự tâm Phật phải là một sự chứng nghiệm hoàn toàn
đặc thù, không thể phát sanh tự một tâm thức tầm thường,
cả đến tâm thức của các bậc minh triết, thông thái, học
nhiều nghĩ nhiều. Nên tự nhiên Phật muốn im lặng thâu thần
vào Niết Bàn, không mở Pháp; nhưng sau đó Phật đổi ý nhân
có lời thỉnh cầu của đức Đại Phạm Thiên trong bài kệ
như sau:
“Như
một người chót vót ngự trên đỉnh núi, nhìn xuống thế
gian đâu đâu cũng thấy,
Cũng
vậy đó, bạch Ngài, đấng Toàn Giác, đấng Toàn Trí, Người
chứng Pháp vô thượng,
Nhìn
xuống thế gian đắm chìm trong sanh tử luân hồi.
Xin
đứng lên, đấng Trượng Phu! Đấng Toàn Thắng! đấng Pháp
Vương rũ sạch hết lậu nghiệp!
Hãy
đi khắp cõi đời, Bậc Đạo Sư trang nghiêm Phước Huệ,
dạy Pháp cho chúng tôi. Thế gian đang chờ Ngài.”
Thật
quá rõ ràng chính sự tâm chứng ấy chuyển Bồ Tát thành
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đó là chỗ tất cả kinh điển,
Tiểu Thừa và Đại Thừa, điều tán đồng.
Đến
đây nẩy ra câu hỏi đầy ý nghĩa nhất trong lịch sử Phật
Giáo. Thật vậy, thử hỏi cái gì trong sự tâm chứng ấy
khiến Phật chiến thắng vô minh, gội sạch hết cảm nhiễm?
Cái kiến chiếu ấy là gì phóng vào sự vật khiến Phật
thấy những cái từ trước chưa bao giờ thấy? Phải chăng
đó là giáo lý “khổ đế” do “ái” và ‘thủ” mà có?
Phải chăng đó là giáo lý “nhân quả’ mà Phật đã phăng
mối đến tận “vô minh”, coi như nguồn gốc của khổ đau
phiền não?
Chắc
chắn không phải vì vận dụng trí óc nhiều mà Phật ngộ
đạo. “Không thể dùng trí suy luận thường mà hiểu được”
là câu nói thường gặp luôn trong văn học Phật giáo, Pali
và Phạn ngữ. Sự hoan lạc Phật trải qua lúc ấy thật sâu
đậm quá, thâm thía quá, và hậu quả vô biên quá, không thể
thuộc phạm vi suy luận. Trí suy luận chỉ đủ sức đưa đến
một sự thỏa mãn thường khi thắc mắc được đánh tan,
nhưng không đủ cương yếu để đi vào chiều sâu của đời
sống nội tâm. Không phải tất cả nhà thông thái đều là
thánh, mà không phải thánh nào cũng là thông thái. Sự quán
tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo
và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định
được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm.
Dõi theo chúng đến tận đầu nguồn, hoặc xâu chúng thành
chuỗi xích nhân duyên, là một việc, còn hàng phục chúng,
chế ngự chúng trong thực tế của sinh hoạt là một việc
hoàn toàn khác. Ở trường hợp đầu, chỉ có trí thức là
hoạt động, còn ở trường hợp sau còn có tác động của
ý chí - và ý chí tức con người. Không phải Phật chỉ tìm
ra Mười Hai Nhân Duyên, mà chính tự tay Ngài nắm lấy chuỗi
xích, bóp nát tan tành, để nó không còn trói buộc Ngài nữa
được.
Nhỡn
quang của Phật kiến chiếu đến chỗ cùng tuyệt của thể
tánh Phật, và Phật thấy tất cả ý “như thực” chẳng
khác nào ta thấy bàn tay của ta bằng đôi mắt của chính
ta - nghĩa là trực tiếp, không suy nghĩ, không biện giải,
không khen chê, không so sánh, không tuần tự từng bước đắn
đo; Ngài thấy, thế là hết chuyện, còn gì mà bàn, mà luận,
mà giải nữa. Phật thấy, thế là đủ rồi, không còn phải
hướng tới đâu hết, trong cũng như ngoài, bên này cũng như
bên kia. Và chính vì mức độ viên mãn và cùng tuyệt của
cái thấy ấy mà Ngài mãn nguyện; Ngài biết chuỗi xích đã
nát vụn rồi, và Ngài là người giải thoát. Vậy, sự tự
chứng tự giác của Phật không bao giờ có thể lãnh hội
được bằng tri thức suy luận chỉ gây thêm cực hình, nhưng
bất lực không hiện thực được cảnh giới Giác Ngộ.
Kinh
nghiệm của Phật về nỗi khổ trong đời là một kinh nghiệm
thực tế, sâu và mạnh khác thường, nên đã chấn động
toàn thể con người của Phật; và hậu quả là sức thâm
cảm phản ứng lại trong giờ hành đạo của Phật sau này
đáp ứng đúng với cao độ của cảm giác ấy. Thật không
gì hiển nhiên hơn Phật không thể tự mãn với một cái nhìn
phiến diện, hoặc quán tưởng suông bằng trí thức, những
cơ sự của cuộc sống. Để trấn định tuyệt đối những
đợt sóng lao xao nổi dậy trong tim, Ngài cần viện đến một
cái gì thâm diệu hơn, của chính tự thể của Ngài. Vì xét
cùng ra, trí thức chỉ là một ông khách bàng quan, nên muốn
nó làm gì thì nó cũng so đo hơn thiệt đòi trả công. Một
mình nó, nó không tạo được trạng thái tâm chứng gọi là
ngộ. Cảm giác tự do tuyệt đối, cảm giác “aham hi araha
loke, aham satta anuttaro” (6) không thể là cái biết thuần trí
thức của một khối óc cao. Ở Phật phải có một ý thức
khác, tinh yếu hơn, mới có thể đưa đến cảnh giới tự
giác thâm diệu tối cao ấy.
Để
diễn lại cảnh giới tự giác ấy, các nhà văn học Phật
tận dụng cả một khi từ ngữ đủ bản sắc, về luận lý
cũng như về đủ phương diện khác. Những từ ngữ thường
dùng là những chữ này: trí, huệ (bát nhã), chứng, ngộ,
thành, giác, kiến. (7) Trên thực tế, hễ ta còn thu hẹp ta
trong vòng trí thức, dầu uyên bác quang minh thế mấy, thì
bản thể của sự vật vẫn thoát khỏi ta. Vì lý do đó, cả
đến những người gọi là Phật tử nguyên thỉ, được coi
là thực nghiệm, duy lý, và bất khả tri, vẫn phải vận dụng
một năng khiếu khác thường hơn, không can hệ gì đến cái
tôi thuộc kinh nghiệm, để nhắm đến những gì thâm diệu
hơn là sự hiểu biết của thế gian trong vòng tương đối.
Kinh
Phổ Diệu, phẩm “vô thượng bồ đề” của Đại Thừa
Giáo còn tỏ ra dứt khoát hơn về bản chất của sự dụng
tâm hoặc trí huệ ấy đã chuyển Bồ Tát thành Phật. Theo
kinh thì “bỗng chốc trong một niệm, bằng trí Bát Nhã, Phật
chứng Vô Thượng Bồ Đề.” (8) Vậy, trí Bát Nhã ấy là
gì? Đó là một sự hiểu biết đạt đến ở một tầng cao
hơn kiến thức tương đối thường. Đó là một năng khiếu
bao gồm cả trí và tâm, và một khi nó phát động thì tất
cả xiềng xích của trí thức đều gãy đổ hết. Trí thức
luôn luôn kẹt ở hai đầu, có người biết (năng tri) và vật
được biết (sở tri), còn Bát Nhã là sự kiến chiếu, trong
một niệm, không phân biệt chủ thể khách thể, cả hai đều
gồm thâu trong một sát na (ikshana), trong một tâm (ekacitta),
và giác là kết quả của cái ấy. Bằng vào những đặc tánh
ấy của Bát Nhã, các nhà Đại Thừa Giáo rọi được nhiều
tia sáng vào bổn chất của tri giác bồ đề (sambodhi); khi
tâm chuyển ngược lại nếp vận động thường, thay vì phân
tán ra ngoài thì thu nhiếp vào trong đến chỗ nhất như, đó
là bắt đầu thành tựu trạng thái “soi thấy trong một niệm”
(nhất tâm kiến chiếu), vô minh hết tạo tác, và những cảm
nhiễm (lậu) hết hoành hành.
Giác
là vậy, một trạng thái tuyệt đối của tâm dứt hết phân
biệt: vọng tưởng hoặc biến kế chấp. (9) Để thể nghiệm
trạng thái kiến chiếu muôn vật “trong một niệm” ấy
phải có một khí lực dõng mãnh. Thật vậy, tinh thần luận
lý và thực tế của ta quá chuộng phân tách và luận giải;
nói một cách khác, ta hay cắt thực tại thành nhiều phần
manh mún để tìm hiểu riêng từng phần; nhưng khi ta ráp tất
cả để làm lại cái toàn thể ban đầu thì phần nào cũng
nổi bật riêng nhau quá, tỏ rõ nên ta không thể thâu nhiếp
cái toàn thể “trong một niệm” (10). Và vì lẽ có “nhất
niệm” mới có giác nên cần nỗ lực vượt qua cái thế
đối đãi ấy của ý thức kinh nghiệm chấp dính vào cái
nhiều thay vì cái một của sự vật. Nên việc làm thiết
yếu nhất nổi bật trên bối cảnh ngộ đạo là Phật đã
vận dụng tất cả khí lực bình sinh để giải quyết vấn
đề vô minh, tất cả hùng lực của ý chí để thoát ra cuộc
chiến.
Ta
đọc thấy trong bộ Katha Upanishad:
“Cũng
như nước mưa từ đỉnh núi chảy xuống khắp nơi, cũng vậy,
người nhiễm phải cái thấy có sai biệt chạy khắp nơi đuổi
theo sự chấp trước. Cũng như nước trộn vào nước vẫn
là nước, này Cồ Đàm, cái biết của người biết cũng như
vậy đó”.
Trộn
nước với nước, theo nghĩa ở đây, là “kiến chiếu những
cái sai biệt trong một niệm”, một cái thấy cũng tuyệt
chặt đứt khối luận lý lầy nhầy, chằng chịt, vô vọng,
nhô lên trên tất cả cái dị và cái đồng, và dung thông
trong cái một tuyệt đối của người biết và cái biết.
Trong cuộc sống thực tế đầy mâu thuẫn của chúng ta, quả
đó là một thế chuyển ngược, một sự vặn tréo, một sự
chấn chỉnh lại vậy.
Ông
Eckhart, nhà huyền học tên tuổi ở Đức, không hẹn mà nên,
đã kỳ ngộ một cách khoái trá quan niệm “kiến chiếu muôn
vật trong một niệm” của Phật giáo khi Ngài tuyên bố: “Tôi
thấy Chúa bằng con mắt nào thì cũng bằng con mắt ấy Chúa
thấy tôi. Mắt tôi, và mắt Chúa, chỉ là một con mắt, một
khuôn mặt, một hiểu biết, một tình thương” (11). Khái
niệm “chuyển ngược” còn được Jacob Boehme cực tả trong
hình ảnh “Umgewandtes Auge” là con mắt “chuyển ngược”,
có khả năng nhận ra Chúa.
Vậy,
Giác Ngộ phải gồm cả ý chí lẫn tri thức. Đó là một
hành vi trực giác phát sanh từ ý chí. Ý chí muốn tự biết
nó là gì, ý như thực - yatha bhutam dassana (12)- ngoài tất cả
điều kiện chi phối sự hiểu biết. Phật đã chứng đến
đó khi Ngài bứng lên một kiến chiếu mới sau bao lần loanh
quanh trong vòng luận lý từ lão, tử đến vô minh, rồi từ
vô minh đến lão, tử, dõi suốt mười hai mắc xích của lý
duyên khởi. Phật cứ dẫm tới dẫm lui nát miếng đất ấy,
vì Ngài bị kẹt vào một ngõ cụt trí thức, lui tới hết
đường; lặp đi lặp lại mãi diễn trình ấy, phải đâu
Phật dụng ý xây dựng lên cho Ngài một hệ thống triết
học riêng, như ban đầu người ta đã tưởng vậy.
Thật
vậy, bấy giờ Phật không còn biết làm sao thoát cái vòng
tư tưởng lẫn quẩn ấy, mà đầu này là sanh lão tử, còn
đầu kia là vô minh. Một mặt Ngài không chối bỏ được
những sự kiện khách quan hiện ra sừng sững, phủ phàng trước
mắt, một mặt vô minh cứ cản ngăn trí năng Ngài vượt ra
xa hơn, đúng ra là đi sâu vào hơn, Ngài bị kẹt ở hai đầu,
không sao thoát được, hết loanh quanh đường này lại lẩn
quẩn ngã kia, mà kết quả vẫn là vô vọng như nhau - sự
vô vọng tuyệt đối của con đường dụng trí. Nhưng vốn
là người bất khuất, Ngài muốn, với tất cả đại hùng
lực của ý chí, đi ngay vào bổn thể của vấn đề, Ngài
cứ đập mãi, đập mãi vào vô minh kì cho cửa phải mở tung
ra: thế rồi trước mắt Phật bày ra chân trời mới lạ bấy
lâu chưa từng thấy. Do đó mà sau ngày thành đạo, trên đường
đến Ba La Nại, gặp đạo sĩ lõa thể Upaka, Ngài reo to:
Ta
là Bậc Tối Thắng, ta là Bậc Toàn Trí,
Xả
trừ hết ô nhiễm và trần cấu,
Lìa
bỏ tất cả, lửa tham dục đã tắt,
Ta
không học với ai thì còn biết gọi ai là Thầy?
Những
gì ta biết, ta không học với một ai,
Không
ai bằng ta trên thế gian này
Dầu
sanh ra ở cõi phàm hoặc cung trời,
Không
một ai bằng ta hết.
Ta
đã thực sự chiến đoạt quả giải thoát,
Toàn
thế gian, ta là bậc Vô Thượng Đạo Sư,
Độc
nhứt trong đời, hoàn toàn Giác Ngộ,
Ta
ngự trong yên vui vô lượng (13)
Khi
nói đến Chứng Đạo hoặc Giác Ngộ, tự nhiên ta dễ liên
tưởng đến khía cạnh nhận thức và quên mất động lực
phi thường của ý chí tác động ở bên sau, mà cũng chính
là động lực cấu tạo nên cốt cách của một cá nhân. Đặc
biệt trong Phật giáo, trí thức chiếm nhiều ưu thế quá,
có lẽ hơi quá đáng phần nào, trong việc thành tựu lý tưởng
sống đạo, nên hàng học giả thường quên mất ý nghĩa của
ý chí, là yếu tố quyết định sự giải quyết đại sự
của cuộc sống. Do đó, tâm trí họ hướng hết vào giáo
lý duyên khởi hoặc diệu đế, được coi như lời dạy tối
cao của Phật. Thật không gì lầm hơn, cũng như họ từng
chấp lầm Phật giáo là một thứ học thuật thuần đạo
đức, cho rằng đó chẳng qua chỉ là một hệ thống luân
lý học (giới), không thần, không Chúa, và như vậy không
hứa hẹn một hình thức bất tử nào. Nhưng ý nghĩa thâm
yếu của Phật giáo về vô minh. Nhân Duyên và Giới Hạnh
còn có một căn bản sâu vững khác thường hơn trong đời
sống tâm linh của con người. Thật vậy, vô minh không có
nghĩa là thiếu cái sáng về kiến thức, mà chính là sự tối
tăm trong tri giác nội tại. Nếu vô minh chỉ nằm trong phạm
vi kiến thức thì khi kiến thức sáng lên rồi sao vẫn không
có, và không thể có, kết quả là Giác Ngộ, là thoát ly tất
cả ràng buộc, và ô nhiễm, và ung độc như ta thấy ở các
học giả Pali? Tri giác của Phật chiếu sâu vào thể tánh
cũng như vào ý chí của Ngài, và Phật biết nó là như thế
ấy, yatha bhutam là như vậy đó tatha bhava và chính từ sự
hiểu biết như thực, như thị (14) ấy Ngài vươn lên trên
chính mình để hiện thực là Phật, vô thượng và tối thắng.
Thành ngữ “vô thượng chánh đẳng chánh giác” (15) là chỉ
vào cái biết thấy siêu việt ấy do Phật tự chứng tự ngộ
lấy.
Vô
minh, phản nghĩa của Giác Ngộ, ở đây có một ý nghĩa thâm
diệu hơn nghĩa thông thường từ trước ta gán cho nó. Vô
minh không có nghĩa suông là thiếu kiến thức, hoặc không
am tường một lý thuyết, một học thuật, hoặc một luật
lệ nào đó. Vô minh chính là không nắm được những sự
kiện thiết cốt của cuộc đời biểu hiện ra từ ý chí.
Trong vô minh, cái biết tách rời sự biết, và người tách
rời cái được biết; trong vô minh, ngoại giới biệt lập
với nội tâm, nghĩa là luôn luôn có những cặp mâu thuẫn
đối lập nhau. Đó là cốt cách tự nhiên của trí thức vậy,
nên hề có biết là có Vô minh gắn liền theo hành vi biết.
Khi ta tưởng biết một việc gì thì vẫn có một việc gì
khác mà ta không biết. Cái không biết luôn luôn nằm sau cái
biết, và không bao giờ ta nắm được người “chủ” vô
danh của cái biết, mặc dầu ông ta luôn luôn là người bạn
đồng hành, không tránh đâu được, có mặt trong mỗi hành
vi biết. Dầu vậy, ta vẫn muốn biết ông chủ vô danh ấy,
ta không thể để ông đi qua mà không biết gì hết về ông
không nắm lấy ông, không thấy chân tướng của ông. Nói
một cách khác, là phải chiếu kiến vào vô minh, và đó quả
là một đại mâu thuẫn, ít ra trên mặt nhận thức. Nhưng
hễ không qua khỏi ngưỡng cửa ấy thì tâm ta không yên, và
đời sống trở thành một cực hình không chịu đựng nổi.
Trên
đường tìm kiếm người chủ căn nhà ốc xá giả (16) Phật
luôn luôn húc đầu vào vô minh, tức người chủ vô danh của
sự biết ở bên sau cái biết. Đã bao lâu rồi, Phật không
rớ tay được vào ông ta dưới lớp mặt nạ đen cho đến
khi Ngài vượt qua, ấy không phải là một hành vi trí thức
mà chính là một sự tự ngộ, một sự tâm chứng hiện thực
ngoài tất cả khuôn phép luận lý, nên vô minh không tháp tùng
theo được. Cái biết mà ta có được về chính mình, trong
chính mình, như thực là chính mình, cái biết ấy không thể
đạt tới bằng bất cứ phương tiện trí thức nào, vì trí
thức nào cũng không được phép vượt ngoài thân phân hữu
hạn của nó. Vô minh chỉ có thể hàng phục được bằng
cách vượt ngoài qui tắc của nó. Đó là một hành vi của
ý chí. Vô minh, tự nó, không có tội, mà cũng không phải
là nguồn gốc của tội lỗi; nhưng nếu ta không thấu suốt
được vô minh là gì, và ý nghĩa của vô minh là gì trong cuộc
sống, thì mọi tội lỗi sẽ nối tiếp nhau, chằng chịt,
không cùng tận. Và tham ái - tansha - đầu mối của tội lỗi,
chỉ có thể chế ngự được khi lý vô minh được quán chiếu
đến chỗ tuyệt cùng.
II.
BỔN CHẤT CỦA VÔ MINH
Bởi
vậy, các nhà học Phật không gì lầm hơn là đùn vô minh
vào quá khứ để lý giải Mười Hai Nhân Duyên (17) trên quan
điểm thời gian. Họ chia hai khoen đầu của chuỗi xích thuộc
quá khứ, tám khoen giữa thuộc hiện tại, và hai khoen chót
thuộc vị lai. Vô minh, đầu mối của loạt nhân duyên, không
có giới hạn nào hết về thời gian, vì nó không thuộc về
thời gian mà thuộc về ý chí, cũng như giác ngộ. Đưa quan
niệm thời gian vào đó ắt giác ngộ, tức là sự tiêu cực
xả trừ vô minh, mất hết tính cách cứu cánh, để rồi ta
lại lẩn quẩn đi tìm một cái gì khác ở ngoài nó; thế
là sợi dây ràng buộc càng siết thêm quanh ta và những cảm
nhiễm (asava = lậu hoặc) hóa thành thân phận ngàn đời của
chúng ta. Không một vị trời nào không ca tụng Giác Ngộ như
“một hoa sen bừng trên biển trí, không chút bợn phiền não,
như vừng nhật đánh bạt hết bóng vọng tưởng, như vừng
trăng dập tắt lửa tội lỗi nung đốt người đời.” (Thế
Thân Phật sở hành tán).
Nếu
Giác Ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển sáu cách
khác nhau như kinh chép thì Vô Minh, khi chưa bị hàng phục,
ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng, vì bổn chất
và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược hẳn lại với Giác
Ngộ. Coi vô minh như một con số trí thức trong bài toán nhân
duyên, rồi giải thích nó trong thế đối đãi của thời gian
là hoàn toàn hủy bỏ tánh chất đệ nhất nhân duyên căn
bản của nó trong chuỗi xích duyên khởi. Uy lực phi thường
Phật tác động vào người đương thời cũng như đến với
hậu thế phải đâu do thuật biện tài xảo diệu và đanh
thép của Phật; đành rằng không ai chối cải diệu thuật
ấy ở Phật, nhưng cốt yếu nhất uy lực ấy có được là
do tâm thể quảng đại và phong cách thâm diệu của Phật
phát ra từ một đại hùng lực của ý chí phóng sâu vào tận
đầu nguồn khai sáng. Phật thắng vô minh là do Phật thi triển
hùng lực ấy, một ý chí vạn năng vậy, mà Ma Vương và đoàn
ma quân đành thất bại tan tành trong mưu toan hoặc khuất lấp
hoặc mê hoặc Phật. Không nắm được tinh nghĩa ấy của
vô minh trong hệ thống duyên khởi hoặc Thánh Đế chắc chắn
sẽ ngộ nhận thực chất của Giác Ngộ, và do đó ngộ nhận
luôn Phật Giáo.
Thoạt
tiên - nhưng thực sự không đâu là thoạt tiên hết trong lẽ
đạo, ngoại trừ trong cuộc sống hữu hạn của ta, ý chí
nảy ra một cái muốn, muốn tự biết nó; ấy thế là mống
lên một ý thức, là động niệm, và hễ động niệm thì
ý chí bị phân hai (18). Ý chí, bổn lai là một, là viên mãn
một, giờ đây bỗng phân hóa làm hai, thành chủ và khách.
Xung đột, do đó, không tránh được. Chủ thì muốn thoát
ly tất cả những gì ràng buộc nó trong ước vọng hiểu biết.
Kể ra tự nó có khả năng biết được, nhưng đồng thời,
với tính cách là khách, vẫn có cái gì nó không thể biết
được. Trên đường cầu hiểu biết, Vô Minh theo liền kiến
thức, khắc nghiệt như một định mạng, như bóng theo hình,
không sao tách rời được hai ông bạn đồng hành ấy. Nhưng
ý chí với tính cách là chủ, buộc phải trở về uyên nguyên,
như khi chưa phân hóa thành mâu thuẫn, tức là chốn thanh tịnh
an nhiên. Nhưng “tình quê” ấy không thể thỏa mãn được
nếu không trải qua những thử thách dẳng dai, đầy kham khổ.
Bởi lẽ một khi cái một bị tách làm hai rồi thì chiến
đấu là cần, rất dõng mãnh, mới phục hồi được nguyên
trạng. Nhưng phục hồi không phải chỉ là phản bổn hoàn
nguyên, vì cái “bổn” ban đầu nhân phân hóa, chiến đấu
và hoàn phục còn được sang giàu thêm gấp bội.
Khi
sự phân hóa mới phát hiện đầu tiên ở ý chí, ý thức
mảng say mê nó mới nó lạ, nó có tài giải quyết những
vấn đề thực dụng nên quên mất sứ mạng của nó, là chiếu
sáng ý chí. Thay vì chuyển ngược cái sáng vào trong chính
nó nghĩa là vào ý chí, tự đó nó bắt nguồn hiện hữu,
nó lại đeo dính thế giới khách trần, hiện tượng và khái
niệm; thảng hoặc nó phản tỉnh lại mà nhìn vào trong thì
thấy ngay ở đó một thế giới thuần nhất tuyệt đối,
và những gì là đối tượng bấy lâu nó khao khát tìm hiểu
lại vẫn là chủ thể, tức chính nó vậy. Gươm không tự
chặt được gươm. Ý thức không quét sách được Vô Minh
vì vô minh là thể chất cố hữu của ý thức. Chỉ còn có
cách là ý chí vận hết khí lực bình sanh để tự mình tự
độ, mà vẫn không phá đổ ý thức cố hữu, hoặc nói đúng
hơn, là để thấu đạt đến căn nguyên xung yếu nhất của
ý thức. Đó là điều đã thành tựu ở Phật, khiến Ngài
không còn là Cồ Đàm, mà trở thành bậc Chánh Trí, bậc Thế
Tôn, bậc Toàn Giác. Trong ý chí thật ra còn có cái gì khác
hơn là ý chí, còn có cái biết và cái thấy. Thấy là tự
thấy, nhân đó ý chí được tự do tự chủ. Đó mới thật
là “biết” theo nghĩa cốt yếu nhất, và chính từ trong
cái biết ấy Cồ Đàm chết đi sống lại để thành Phật.
Hễ
ý chí còn bị đánh lừa bởi những gì do chính nó tạo ra,
hoặc phản chiếu ra, thì Vô Minh còn ưu thế, và luôn luôn
còn có ý thức phân biệt người biết và cái biết biệt
lập nhau. Sự đánh lừa ấy dầu sao cũng không kéo dài được
trước ý chí muốn được sáng tỏ, được tự do tự tại.
Vô minh bao giờ cũng giả thiết có một cái gì chưa biết
ở bên ngoài, cái thường được gọi là tự ngã, hoặc linh
hồn, nhưng xét cùng ra chỉ là ý chí ở trạng thái Vô minh.
Nên khi Phật ngộ đạo, Ngài tỏ rõ ngay không đâu có tự
ngã, không đâu có linh hồn từng được coi là một thực
thể chưa biết và không thể biết. Giác Ngộ đánh bạt hết
Vô Minh, và cùng với Vô Minh biến mất luôn tất cả hình
ma bóng quế phảng phất lên từ đáy hang sâu thẩm của cái
tôi. Vô minh thường hiểu là phản nghĩa vói kiến thức, nhưng
trong giáo lý Phật giáo, nó đối lập với Giác Ngộ, và có
nghĩa là cái tôi, cái “atman” mà Phật đã phủ nhận với
tất cả khẩn thiết. Đó không có gì phải ngạc nhiên khi
ta thấy rõ tất cả lời Phật dạy đều qui thúc vào giáo
lý Giác Ngộ là giáo lý đã đánh bạt Vô Minh.
Học
Phật mà chỉ thấy có lý vô ngã, không màng thâm cứu lý
Giác Ngộ, ắt không nhận chân được tất cả ý nghĩa của
thông điệp Phật trao cho thế gian. Kể ra, trên phương diện
tâm lý, Phật phủ nhận cái tôi sau khi nghiền nhỏ nó thành
từng phần, chỉ một việc ấy, trên phương diện khoa học,
Phật đáng gọi là vĩ đại rồi, vì khả năng phân tách của
Phật thật đã vượt hẳn người đương thời; tuy nhiên,
nếu chỉ có vậy thì ảnh hưởng của Phật, với tư cách
là bậc lãnh đạo tinh thần, không thể phổ quát và lâu dài
đến thế. Giáo lý vô ngã của Phật không phải chỉ thiết
lập lên bằng một cuộc khảo sát khoa học như hiện nay,
mà cốt yếu hơn đó là kết quả của một sự tu chứng.
Nếu Vô Minh được thấu triệt đến cùng lý thì Vô Minh diệt,
và đương nhiên cái tôi cũng bị phủ nhận luôn, không còn
là một thực thể căn bản cho mọi hoạt động trong đời.
Giác Ngộ là một quan niệm thực tế, rất khó nhận chân
được cho người thường. Chỉ khi nào ta nhận ra ý nghĩa
của nó trong toàn bộ Phật giáo, và dồn hết nỗ lực nhằm
hiện thực nó, thì đương nhiên mọi việc khác sẽ tự giải
quyết lấy, như khái niệm về Ngã, Ngã chấp, Vô Minh, Triền
phược, Lậu hoặc, v.v.. Giới hạnh, quán tưởng, cầu lý,
tất cả phương tiện ấy chỉ nhằm đưa đến cứu cánh duy
nhất đặt ra cho Phật giáo, là Giác Ngộ. Phật thường nhắc
đi nhắc lại cho môn đệ giáo lý nhân quả, thường dạy
vì sao khi nhân có thì quả có, và bằng cách nào nhân dứt
thì quả dứt theo, đó không phải Phật cốt gắn vào họ
một thứ luận lý hình thức, mà chính mở quả trực tiếp
thế nào với hạnh phúc, tự do và yên vui tinh thần của con
người.
Hễ
còn coi Vô Minh như thiếu khả năng biện luận để hiểu biết
thì khi hiểu biết rồi, khi Vô Minh diệt, vẫn không bao giờ
đưa đến giải thoát và tự do, thứ tự do mà cả đến các
bản văn Phật giáo cổ nhất vẫn thường ám chỉ với tất
cả khẩn thiết. Thử đọc lời tuyên bố sau đây của vị
La Hán ấy (Phật) trong bộ Nikaya về tâm tự do giải thoát:
“Tâm tôi bỗng bừng sáng lên chứng quả giải thoát vô thượng.
Đây là thọ thân sau rốt của tôi, từ đây dứt hết nghiệp
tái sanh rồi”. Câu nói sắc và mạnh làm sao, chứng tỏ Phật
đã nắm lấy mạch sống với tất cả nhiệt thành và quyết
tín. Đoạn văn thật đã định rõ đặc tính của quả vị
La Hán. Nếu muốn thêm chi tiết, thì đây:
“Bằng
cái biết như vậy, bằng cái thấy như vậy, (19) tâm người
thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Giải thoát, người biết được giải thoát. Người
biết cuộc tái sanh này đã giải trừ xong, phạm hạnh đã
thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không còn
thọ thân nào khác”.
(Kinh
Tu Bà, Subha sutta)