Luận
năm
NGỘ
HAY LÀ SỰ PHÁT TRIỂN MỘT CHÂN LÝ MỚI TRONG ĐẠO THIỀN
1.
KHÔNG NGỘ CHẲNG PHẢI THIỀN
Tinh
yếu của Thiền cốt ở một nhỡn quang mới phóng vào cuộc
sống, và vũ trụ nói chung. Thế nghĩa là, để thâm nhập
trong đạo Thiền, ta phải vứt bỏ tất cả nếp cảm nghĩ
thông thường điều khiển cuộc sống hằng ngày của chúng
ta để cố tìm coi biết đâu còn có một đường lối nhận
định khác hơn thói thường, hoặc nói đúng hơn, thử xem
lối nhận định thông thường có đủ để đáp ứng trọn
vẹn và rốt ráo những đòi hỏi của tâm hồn ta không. Nếu
ta vẫn cảm thấy không vừa ý gì đó với cuộc sống này,
nếu có cái gì trong nếp sống hằng ngày khiến ta như bị
vướng mắc, thiếu tự do, theo nghĩa thiêng liêng nhất, ắt
ta phải thử tìm ra một cái gì khác ngõ hầu cuộc sống ta
có được một cảm giác ổn định và thoải mái. Thiền đề
nghị làm việc ấy cho ta và đoán chắc có được cái nhìn
mới ấy thì cuộc đời sẽ diễn ra trong một khuôn mặt tươi
mát hơn, thâm trầm hơn, và thỏa đáng hơn. Lẽ dĩ nhiên cái
có ấy là một đại biến cố tinh thần độc nhất vô nhị
trong đời, không dễ gì đạt tới, vì đó là một cuộc rửa
tội trong lửa, phải dấn qua vô số thử thách hãi hùng của
bão tố giữa cơn dầu sôi nước phỏng, núi lở đá tan.
Cái
có một nhỡn quang mới ấy trong việc xử kỷ tiếp vật trong
đời thường gọi là NGỘ, và theo người Nhật là Satori.
Đó chẳng qua là một tên gọi khác của quả vị Chánh đẳng
chánh giác - anuttara samyak sambodhi - danh từ Phật và các đệ
tử của Phật ở Ấn Độ thường dùng từ ngày Phật thành
đạo ở cội bồ đề, gần sông Ni Liên. Ngoài ra còn nhiều
thuật ngữ Trung Hoa khác chỉ vào sự tâm chứng ấy, mỗi
chữ có một tình tiết riêng tùy chỗ ngộ giải theo kinh nghiệm
riêng. Tuy nhiên, dầu giải thích cách nào, không Thiền không
có Ngộ, không Ngộ chẳng phải Thiền, Ngộ là chữ đầu
và chữ chót của quyển sách Thiền vậy. Thiền mà không Ngộ
chẳng khác nào mặt trời không có ánh sáng và nắng ấm.
Thiền có thể mất tất cả, nào học thuật, nào chùa chiền,
nào thể thức hành đạo, nhưng hễ Ngộ còn bao hàm trong Thiền
thì Thiền vĩnh viễn còn tồn tại với thế gian. Tôi muốn
nêu lên sự kiện cực kỳ tâm yếu ấy gắn liền vào sinh
mạng của đạo Thiền vì có nhiều người, cả những người
tu Thiền, vẫn chưa ý thức được điểm căn bản ấy, tưởng
rằng cứ đem Thiền ra giải thích bằng lý, bằng triết, hoặc
như một bài triết luận có thể rút gọn vào một số cú
pháp thật cao kiến, thật tuyệt kỹ, là Thiền không còn gì
nữa, rỗng hết cốt tủy. Nhưng tôi, trái lại, tôi cả quyết
rằng sinh mạng của Thiền là cốt ở khai ngộ.[1]
Ngộ
có thể định nghĩa là một trực giác phóng thẳng vào bản
thể của muôn vật, khác với sự hiểu biết bằng phân tách,
bằng luận lý. Trên thực tế, đó là khám phá ra một thế
giới mới chưa bao hiển lộ đến cho một tâm thức đảo
điên của những người chuyên luyện trí bằng luận giải
nhị nguyên. Hoặc nói khác hơn, hễ ngộ rồi thì muôn vật
quanh ta sẽ hiện ra dưới một quan điểm hoàn toàn mới lạ
chẳng ngờ. Dầu sao, thế giới sau khi ngộ không còn là thế
giới cũ ngày nào; dầu vẫn dòng nước chảy ấy, vẫn ngọn
lửa nóng thiêu ấy, thế giới ấy không bao giờ “mê” trở
lại như xưa. Nói theo luận lý học, tất cả mâu thuẫn, tất
cả dị biệt, đều đồng nhất, đều dung thông nhau trong
cái toàn thể thân thiết và nhịp nhàng. Đó là một sự mầu
nhiệm, một phép lạ, nhưng phép lạ ấy, các Thiền sư cho
rằng vẫn diễn ra hằng ngày trong đời chúng ta. Vậy, ngộ
chỉ có được ở nơi ta bằng sức tự mình chứng lấy.
Ta
có thể miễn cưỡng hình dung cái ngộ ấy , dầu rất thấp
kém, rất vụn vặt, khi bất thần ta giải đáp được một
bài toán khó, hoặc khám phá một việc phi thường, hoặc thoát
ra một ngõ bí trong những điều kiện bối rối và tuyệt
vọng nhất, nói tóm lại khi ta reo to: “Eureka! Eureka! .” Nhưng
đó chỉ ứng với khía cạnh trí thức của ngộ, nên cố
nhiên là rất vụn vặt, rất thiếu sót và như vậy không
ấn sâu vào căn bản của cuộc sống - cuộc sống một, bất
khả phân. Trái lại cái ngộ của Thiền phải gắn liền vào
cuộc sống toàn diện. Nên cái Thiền nhằm thực hiện cho
ta là một cuộc cách mạng, mà cũng là một cuộc đánh giá
lại con người chúng ta, thẩm định lại chính ta như một
đơn vị tâm linh. Giải đáp một bài toán là xong bài toán,
chỉ thế thôi, không can dự gì đến sinh mạng của người
giải đáp. Mọi vấn đề khác, thực tế hoặc khoa học cũng
không gì hơn, hoàn toàn không tác động vào mạng sống của
những cá nhân liên hệ. Nhưng “khai ngộ” đích thực là
một cuộc tái thiết toàn thể đời người. Nếu là cái ngộ
thực - vì có nhiều trường hợp giả - thì sức tác động
của nó vào sinh hoạt đạo đức và tâm linh của ta thật
là cách mạng, toàn làm đẹp ra, phấn khởi lên, và trong sạch
lại. Có người hỏi một Thiền sư: “Phật tánh là gì?”,
sư đáp:
“Thùng
sơn lủng đáy.”
Thế
đủ biết sự tâm chứng ấy gây lên một cuộc cách mạng
toàn triệt như thế nào. Ngày khai sanh của một con người
mới đúng là một đại biến cố.
Trong
tâm lý học tôn giáo, hiện tượng đổi mới toàn thể vận
mạng ấy gọi là “quy cải”. Nhưng danh từ ấy, riêng dùng
cho những người mới khép mình theo đạo Chúa, không thể
áp dụng đúng mức vào kinh nghiệm Phật giáo, nhất là cho
những người tu Thiền; danh từ quá nặng về tình cảm để
có thể coi như tương đương với “ngộ” hoàn toàn vượt
thoát hết. Khuynh hướng chung của Phật giáo, như ta đã biết,
nặng về trí hơn tình, nên giáo lý Giác Ngộ của Phật giáo
khác hẳn với quan niệm cứu rỗi của người Công giáo; và
Thiền vốn là một tông phái của Đại Thừa, dĩ nhiên dự
phần rộng rãi vào cái có thể gọi là siêu trí luận, một
thứ trí thức không quy thúc ở lý nhị nguyên vậy. Nói một
cách bóng bẩy hơn, thơ mộng hơn, ngộ là “tâm hoa nở”,
là “đổi cung đàn”, là “tâm thông”.
Tất
cả những hình ảnh ấy đều chỉ vào sự mở thông một
chướng ngại nào đó để cho bộ máy chạy trơn, hết trục
trặc, hoặc cho tâm hoạt dụng điều hòa, hết vướng mắc.
Chướng ngại một khi san bằng là một chân trời mới mở
rộng trước con người, cao rộng vô biên, cổ kim thu trọn.
Hoàn toàn tự do trong hoạt động, khác với lúc còn mê, cuộc
sống giờ đây phô diễn ra ngang dọc tùy ứng theo những diệu
dụng vô cùng - và đó là cứu cánh Thiền đề nghị đưa
ta đến. Người ta thường coi đó như tương đương với trạng
thái “không chủ tâm, không định ý”. Nhưng các Thiền sư
cho rằng lý “vô đắc” ấy thuộc về thái độ chủ quan
của tâm vốn siêu việt mọi giới hạn của tư tưởng. Thiền
không chối bỏ những lý tưởng đạo đức, mà cũng không
cố vượt qua; đó chỉ là một trạng thái nội tại của
tâm thức, bất chấp mọi hậu quả khách quan.
II.
THẤY TÁNH và NGỒI THIỀN
Tất
cả công quả của Bồ Đề Đạt Ma trong cuộc Đông độ đầu
thế kỷ thứ VI là chuyển yếu tố “ngộ” ấy vào cơ thể
Phật giáo cho những người học Phật chỉ chuyên tinh luyện
triết
lý, hành Phật chỉ nặng nghi thức giới điều[2]. Pháp trực
tiếp “truyền tâm ấn” do Sơ Tổ chủ xướng lên,
đó tức là “khai ngộ”, là phóng ra một nhỡn quang mới
quán chiếu vào kim ngôn của Phật.
Tổ
thứ sáu, Huệ Năng, đặc biệt làm nổi bật hơn bao giờ
hết khía cạnh ngộ của thiền định (dhyana) trái với phương
pháp mặc tĩnh của Bắc tông, theo chủ trương trụ tâm quán
tịnh của Thần Tú. Tiếp theo, các cao tăng Mã Tổ, Huỳnh
Bá, Lâm Tế, và tất cả ngôi sao khác, từng nhóm quần tinh
sáng rực trong những ngày sơ khởi của đạo Thiền ở thời
nhà Đường, đều từng loạt đứng lên biện hộ cho cái
ngộ ấy; mọi hoạt động của các ngài trong đời đều
không ngớt tinh tiến hướng đến đó; và cái đó như ta dễ
thấy, khác hẳn với sự trầm tư quán tưởng, hoặc ngồi
thiền nhập định. Họ chống mạnh lại phương pháp tĩnh
tọa, cho rằng tu thế là thiển cận, là giam mình trong hầm
hắc ám. Vậy, trước khi đi xa hơn, ta cần nhận rõ điểm
ấy để đánh bạt hết nỗi ngờ về ý nghĩa tối hậu của
Thiền, vốn không phải là phí cuộc đời luyện cho tâm trí
chìm lỉm trong hôn mê, mà chính là kiến chiếu vào tự thể
của cuộc sống, nghĩa là mở ra con mắt ngộ.
Ở
Nhật Bổn có một bộ sách tên là Thiếu Thất lục môn. Thiếu
Thất là tên riêng của Đạt Ma, sơ tổ Thiền Tông; sách gồm
có sáu bài luận, trong số ấy có vài bài chắc do Tổ nói
ra, kỳ dư đều không phải của Tổ, có lẽ mới được soạn
ra sau này trong đời nhà Đường khi Thiền Tông bắt đầu
gieo ảnh hưởng sâu rộng hơn trong giới Phật tử Trung Hoa.
Nhưng tinh thần quán xuyến toàn bộ sách vẫn là chấn phong
thuần túy của đạo Thiền. Một trong những bài luận ấy
có tên là “huyết mạch luận”, luận về sự thấy tánh,
hoặc ngộ mà tác giả coi là cốt tùy của Đạo Thiền. Dưới
đây là phần trích dịch[3]:
“Muốn
tìm Phật, cần thấy tánh, vì tánh[4]tức là Phật.
Nếu
chẳng thấy tánh thì niệm Phật, tụng kinh, chay lạt giữ
giới nào có ích gì?
Niệm
Phật thì được công quả tốt.
Tụng
kinh thì tâm trí được sáng thông.
Giữ
giới thì được sanh lên cõi trời.
Bố
thí thì được phước báo.
Nhưng
tìm Phật như vậy chẳng gặp Phật bao giờ. Nếu tự ngươi,
ngươi chưa sáng tỏ thì nên tham vấn bậc thiện tri thức
hiểu căn bản của sanh tử luân hồi. Người không thấy tánh
không thể gọi là thiện trí thức.
“Nếu
chẳng vậy thì dầu có nói được mười hai bộ kinh vẫn
chẳng ra khỏi sanh tử luân hồi, vẫn chịu khổ trong
ba cõi chẳng có ngày ra. Xưa tỳ khưu Thiện Tinh[5] thuộc làu
mười hai bộ kinh mà vẫn chẳng thoát khỏi luân hồi vì chẳng
thấy tánh. Thiện Tinh kia còn vậy huống nữa là người đời
nay mới giảng được năm ba bộ kinh luận đã tự coi
là hiểu pháp Phật, thật chẳng gì ngu hơn. Hễ không thấu
được tâm mình thì tụng đọc ích gì chỉ là hư văn. Muốn
tìm Phật, trước hết phải thấy tánh. Vì tánh tức là Phật.
Phật là người tự tại, là người vô sự, là người
vô tác. Nếu, thay vì thấy tánh, người hướng ngoại suốt
ngày cầu Phật lông bông, ắt không bao giờ thấy được Phật.
Phật
là tự tâm, chớ lầm vái lạy (những vật bên ngoài). Phật
là tiếng Ấn Độ, bên Trung Hoa gọi là Giác tánh. Giác tức
là linh giác. Và chính cái tánh tự kỷ linh giác ấy đáp ứng
với ngoại vật trong sinh hoạt thường ngày, nhướng mày,
nháy mắt, dang tay giơ chân.
Tánh
tức là tâm
Tâm
tức là Phật
Phật
tức là Đạo
Đạo
tức là Thiền . “Chỉ một chữ Thiền, cả thánh phàm đều
không lượng nổi.”
Trực
tiếp thấy tánh, đó tức là Thiền. Bằng chẳng thấy tánh
thì chẳng phải Thiền vậy. Dầu có giỏi nói được ngàn
kinh muôn luận, nếu chẳng thấy tánh thì vẫn là phàm phu,
chẳng phải là Pháp Phật. Đạo lớn cao thâm, u huyền, không
thể nói cho hiểu được. Kinh điển không dựa vào đâu với
tới được. Chỉ nên thử thấy tánh dầu chỉ một lần,
thì suốt thông hết cả đến những người chữ nghĩa dốt
đặc. Thấy tánh tức là Phật.
“Những
người không thấy tánh mảng lo tụng kinh niệm Phật, tinh
tiến học hoài, đêm ngày tu tập ngồi mãi không nằm, cốt
lấy cái học rộng nghe nhiều tâm pháp Phật , những chúng
sanh đó đích thực là người phỉ báng Phật.
Phật
trước Phật sau chỉ nói thấy tánh. Muôn vật đều vô thường.
Nếu
không thấy tánh mà rêu rao là được Chánh Giác, đó là người
đại tội
Trong
mười học trò lớn của Phật, A Nan được tiếng học rộng
nhất, nhưng ông không thấy gì ở Phật hết vì ông chỉ lo
thu thập kiến thức.
Lục
Tổ ở điểm ấy còn tỏ ra dứt khoát và quyết liệt hơn
khi người ta hỏi Ngài “Tổ Hoàng Mai khi phó chúc truyền
thọ gì?” Tổ đáp:
“Không
truyền thọ gì hết, chỉ luận môn thấy tánh, chẳng đá
động gì đến phép giải thoát hoặc tọa thiền nhập định”[6]
Ở
một đoạn khác Lục Tổ gọi là “tà mê”, không đáng đến
học hỏi, những người đầu óc trống rỗng, suốt ngày ngồi
im thin thít không nghĩ tưởng gì hết trong khi “cả đến
người ngu, nếu bỗng chốc ngộ chân lý, mở con mắt huệ,
vẫn thành bậc trí, chứng vào Phật Đạo”. Rồi khi
Lục Tổ nghe thuật lại phép dạy đạo của Bắc Tông cốt
chận đứng tất cả tư tưởng, lặng im ngồi kiết già quán
tưởng mãi không nằm, Ngài tuyên bố những phép hành đạo
ấy toàn thác loạn vô ích, xa vời Thiền lý, và Ngài đọc
bài kệ như đã dẫn ở phần trước:
Khi
sống, ngồi chẳng nằm
Chết
rồi nằm chẳng ngồi
Một
bộ xương mục thúi
Có
gì gọi công phu?
Tại
Truyền pháp viện, Mã Tổ[7]ngày ngày đến đó ngồi thiền.
Sư Nam Nhạc thấy hỏi:
“Đại
đức ngồi thiền để làm gì?
- Để
làm Phật.
Sư
bèn cầm một miếng ngói đến trước am ngồi mài trên phiến
đá. Mã Tổ thấy lạ hỏi:
“Sư
mài ngói để làm gì?”
- Để
làm gương
- Mài
ngói sao thành gương được?
Sư
đáp: “Còn ngồi thiền há thành Phật được sao?”
Mã
Tổ hỏi: “Vậy phải làm sao?”
Sư
đáp: “Ví như người đánh xe, xe không chạy, nên đánh vào
xe? Hay đánh vào bờ?”
Sư
nói tiếp: Ông học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu
học ngồi Thiền thì Thiền không phải việc nằm ngồi. Nếu
học ngồi Phật thì Phật không có hình tướng nhất định,
ở nơi pháp vô trụ chẳng giữ chẳng bỏ. Ông học ngồi
Phật tức giết Phật; bằng chấp vào tướng ngồi[8]thì
chẳng đạt lý.
Quả
là những câu nói quá tỏ rõ khiến ta không còn ngờ được
về cứu cánh tối hậu của Thiền. Cứu cánh ấy phải đâu
là hôn trầm trong cái ngồi mặc tĩnh như kiểu những ông
thánh Ấn Độ cố trừ bỏ tất cả tư tưởng - những tư
tưởng không biết từ đâu đến rồi lát sau lại đi mất
chẳng biết về đâu. Những nhận xét trên cốt dọn đường
để bạn đọc có thể hiểu sâu hơn phần vấn đáp tiếp
theo sau, vì đó là phần biện minh kiến giải của tôi về
Thiền, cốt ở khai ngộ, hoặc phóng một nhỡn quang mới vào
vũ trụ và nhân sinh. Các Thiền sư, như ta sẽ thấy sau, luôn
luôn nắm lấy bất cứ sự việc rất tầm thường nào trong
đời làm cơ duyên chuyển tâm người cầu đạo vào một
dòng “đào nguyên” mới lạ chưa bao giờ chứng thấy. Đó
cũng như khai một mạch nước ngầm, vừa khai xong là ngọn
nước - những chứng nghiệm mới - thao thao phun trào ra. Lại
cũng ví như đóng hồ gõ giờ, lò xo vừa bật là toàn bộ
then máy phát âm thanh chuyển động ngay. Dường như trong tâm
ta có cái gì thuộc hệ thống ấy; đến phút giây nào đó,
tấm màn bấy lâu che khuất được vén lên, một thế giới
hoàn toàn mới hiện ra và toàn thể cuộc sống chuyển sang
một cung điện mới lạ hẳn. Chính cái “mổ cò” ấy của
bộ máy tâm, hoặc sự mở thông ấy, các Thiền sư gọi là
ngộ, và đặc biệt nêu lên làm mục tiêu hành Thiền.
Tiện
đây, bạn đọc có thể suy nghiệm câu nói chiếu diệu sau
đây của nhà huyền học Eckhart: Một vị hiền triết bên
lương có nói với vị khác một câu nói thâm trầm như vầy:
“Tôi chợt thấy ở trong tôi có cái gì bừng sáng lên trên
lý trí của tôi. Tôi biết có cái gì đó, nhưng không biết
rõ là cái gì, không thể nhận ra được. Tôi có cảm tưởng
nếu nhận ra được chắc chắn tôi sẽ biết tất cả sự
thực”.
III.
VẤN ĐÁP
Những
câu chuyện dẫn sau đây không nhằm vẽ lại toàn thể diễn
trình của tâm thức từ lúc người học đạo mới thọ giáo
đến hồi cứu cánh ngộ đạo, qua vô số thăng trầm vấp
váp. Nhưng ví dụ đưa ra chỉ cốt cho thấy pháp thiền chỉ
có ý nghĩa khi cây trục của nội tâm xoay sang một thế giới
khác, rộng hơn. Vì một khi thế giới thâm diệu ấy mở ra
là cuộc sống hằng ngày, cả đến những tình tiết tầm
thường nhất, vẫn đượm nhuần Thiền vị. Nhìn ở góc này,
thật vậy, ngộ là cái xoàng xĩnh, vô nghĩa lý nhất đời,
nhưng ở góc khác, nhất là khi ta chưa hiểu, nó kỳ bí không
gì hơn. Vả, xét cùng ra ngay cả cuộc sống nay chẳng
đầy kỳ quan, bí mật, và huyền vi, ngoài tâm hiểu biết
của trí óc con người sao?
Một
chú tiểu thành khẩn thỉnh Triệu Châu dạy Thiền, Châu hỏi:
- Chú
ăn cháo chưa?
- Ăn
cháo rồi.
Châu
bảo: “Rửa chén đi”
洗
砵 盂 去
Thoạt
nghe chú tiểu liền tỉnh ngộ.
Thế
ra cái ngộ thường tục biết chừng nào.Tuy nhiên, để thấy
rõ một câu chuyện quá đỗi tầm thường như vậy trong đời
lại đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong đạo Thiền,
tôi xin đưa ra một ít nhận xét của chư sư sau này hầu bạn
đọc có thể nhận qua nội dung của sự ngộ đạo.
Vân
Môn (???-949) sau đó có lời bình giảng như vầy:
“Có
ngụ ý truyền riêng gì không trong câu nói của Triệu Châu?
Nếu có, truyền cái gì? Nếu không, chú tiểu ngộ cái gì?”
Sau
lại có Vân Phong (997-1062) phản đối lại vầy: “Đại sư
Vân Môn không biết cơ sự thế nào hết nên bình giảng như
vậy, không ích lợi gì hết, toàn là vẽ rắn thêm chân, bôi
râu cho quan hoạn. Ý kiến tôi khác. Tôi nghĩ rằng chú tiểu
tưởng mình tỉnh ngộ kia đang rơi xuống địa ngục lẹ như
một mũi tên".