Cuốn “Những
vấn đề triết học Phật giáo” xuất bản ở Petrograt năm 1918 và hầu như
chưa được dịch ra các thứ tiếng Âu châu. Tác giả cuốn sách - Viện sĩ O.O.
Rosen -beng - học trò của nhà Phật học nổi tiếng thế giới Stch – erbtsky.
Cuộc đời của O.O. Rozenberg giành phần lớn cho việc nghiên cứu triết học
Phật giáo. Ông dự kiến chia “Nhập môn triết học Phật giáo” làm ba
tập. Tập một, liệt kê toàn bộ những tài liệu về Phật giáo ở Trung quốc và
Nhật bản bằng ba thứ tiếng: Phạn, Trung quốc và Nhật bản. Tập hai là
nội dung chủ yếu của công trình mới đầu đề “Những vấn đề triết học Phật
giáo”, mà chúng tôi giới thiệu ở đây. Tập ba, ông định trình bày về “Những
tông phái Phật giáo”, trên bình diện triết học. Rất tiếc cuộc đời ông
chỉ hoàn thành hai tập đầu, còn tập ba, ông chưa kịp viết đã mất. Nhưng
với hai tập đầu, O.O. Rozenberg đã đóng góp cho Phật học thế giới những
tác phẩm nổi tiếng và sau này đã trở thành những tác phẩm kinh điển của
Phật học Nga và Sô viết. Cuốn “Những vấn đề triết học Phật giáo” đã đi sâu
vào những vấn đề lý luận cơ bản lâu đài của Phật giáo dựa trên các căn bản
Trung quốc và Nhật bản. Mặc dù. Viện sĩ khiêm tốn cho rằng tác phẩm này
chỉ là liệt kê ra những vấn đề triết học Phật giáo, còn đi sâu hơn cần có
những chuyên khảo, nhưng chúng tôi vẫn thấy đây là một tác phẩm có giá trị
cho đến ngày nay. Bởi vậy, chúng tôi xin mạnh dạn với Quý vị độc giả cuốn
sách này. Thiết nghĩ nó là tài liệu tham khảo, giúp ích phần nào cho độc
giả và giới tu hành hiểu thêm Phật giáo trên bình diện lý luận, từ đó góp
phần tạo nên cái không chung để chúng ta nghiên cứu Phật giáo Việt nam -
một tôn giáo đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong lịch sử tư tưởng và văn
hóa nước ta. Cuốn sách này được phó tiến sĩ triết học Phật học Nguyễn
Hùng Hậu và phó tiến sĩ Mỹ học Ngô Văn Doanh dịch. Tất nhiên, cũng như
mọi cuốn sách khác, nó không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong độc giả
kiến đồng hòa giải.
Hà nội, ngày 15-8-1990
Thượng tọa Thích Thanh Tứ
Công trình đang ở trước mắt bạn đọc, phần hai của bộ
“Đại cương nghiên cứu Phật giáo qua tài liệu Trung quốc và Nhật bản” là
kết quả công việc chuyên môn mà chúng tôi thu được sau bốn năm làm việc
tại Nhật bản. Nhiệm vụ mà Khoa các ngôn ngữ phương Đông đặt ra cho chúng
tôi trong đợt công tác ở Nhật bản vào năm 1912 là nghiên cứu ngữ văn và
các văn bản tôn giáo, triết học Nhật bản.
Mảng văn học tôn giáo triết học là lĩnh vực của bộ môn Nhật học và hầu như
chưa được biết tới ở Châu Âu. Khi tìm hiểu mảng văn học Nhật về Phật giáo
và Thần đạo, chúng tôi nhận thấy cần trước tiên phải biết một giáo trình
về từ vựng vì thiếu công cụ này thì không thể nghiên cứu ngữ văn được.
Tập tài liệu từ vựng, tức phần đầu của “Đại cương…” có ý nghĩa quan trọng
về hai mặt. Một mặt, đó là những quy tắc từ vựng học của những thuật ngữ
về tôn giáo và triết học của Phật giáo, và phần nào của Thần đạo. Mặt
khác, phần đầu của “Đại cương” là cuốn từ điển đối chiếu các thuật ngữ
triết học của tiếng Trung quốc, Nhật và Sanskrit.
Phần hai của công trình, tức tác phẩm này có ý nghĩa chung hơn vì nó đề
cập tới những vấn đề triết học Phật giáo. Ở công trình này, chúng tôi cố
chỉ ra cơ sở triết học Phật giáo chung mà từ đó nẩy sinh ra vô vàn những
học thuyết khác nhau. Chúng tôi gọi công trình của mình là “Khái quát một
cách hệ thống những vấn đề” chứ không gọi là hệ thống triết học Phật giáo
vì không có những hệ thống chung bên cạnh những tông phái riêng biệt. Bởi
vậy, cố gắng tạo lập ra một hệ thống Phật giáo trừu tượng chung như vậy là
một việc làm vô ích. Chỉ tồn tại những hệ thống riêng biệt của những tông
phái và những tác giả khác nhau. Nhưng những hệ thống đó lại thống nhất ở
tính chung khái quát của những vấn đề, những phương thức, những cách giải
quyết và những kết luận. Những hệ thống đó khác biệt nhau, chủ yếu, là ở
chỗ vấn đề nào được đưa lên bình diện chủ yếu và những vấn đề nào ít được
chú ý hơn. Với nghĩa này, những biểu hiện thống nhất của một số vấn đề,
của một vài nhóm tư tưởng tạo nên sự gắn bó không thể tách rời được giữa
các hệ thống với nhau, chúng ta có quyền nói về một “Phật giáo” chung cũng
như về thế giới quan đặc trưng của Phật giáo, theo kiểu như chúng ta
thường nói về một “Thiên chúa giáo” chung, nhưng kỳ thực cũng đã bị phân
ra thành một loạt những xu hướng thù địch nhau.
Quy tắc phương pháp luận quan trọng nhất để thiết lập nên công trình này
là điều chúng tôi cho rằng, nghiên cứu Phật giáo phải bắt đầu từ sự hiểu
biết về những hình thức mà nó hiện còn tồn tại ở Nhật bản. Có hiểu được
giáo điều Phật giáo hiện đại ở Nhật bản, mới dễ dàng chuyển sang nghiên
cứu những hình thức cổ của Phật giáo.
Quy tắc cơ bản là từ nghiên cứu cái đã biết sang nghiên cứu cái chưa biết
chứ không phải là ngược lại, sẽ đem lại những kết quả, phần nào, hoàn toàn
đối lập với các cách hiểu đang được thừa nhận ở châu Âu về Phật giáo cổ.
Dường như những bản luận triết học có hệ thống là cơ sở giáo điều cho các
tông phái Phật giáo đã tồn tại và đang tồn tại. Văn bản linh thiêng, theo
nghĩa hẹp, hiển nhiên là các kinh (“Sutra”). Nhưng các Sutra bao giờ cũng
được diễn giải ở các bản luận này hay các bản luận khác. Nếu xuất phát từ
hiện đại để nhìn quá khứ, chúng ta luôn luôn thấy ở nơi một hiện tượng
khác nhau: Cuộc sống giáo điều của Phật giáo chỉ bó hẹp trong các bản
luận, với cao tăng được giáo dục bằng các bản luận, và các kinh luôn luôn
được nghiên cứu theo nghĩa các bản luận.
Từ những điều vừa nêu, nẩy ra một ý quan trọng là: Nghiên cứu Phật giáo
cổ cần phải bắt đầu từ những bản luận có hệ thống chứ không phải từ các
kinh. Cho đến nay, ở châu Âu, người ta thường đưa các bộ kinh lên bình
diện đầu tiên và ít chú ý tới các bản luận và những chú giải. Bởi vậy
chúng tôi không lấy những tác phẩm ở châu Âu về Phật giáo làm cơ sở tư
liệu cho công trình của mình.
Do không lưu ý tới các bản luận nên các nhà Ấn độ học châu Âu thường bỏ
qua các ý nghĩa đặc biệt của khái niệm “dharma” trong thuật ngữ học Phật
giáo. Thế mà trong thực tế, việc hiểu toàn bộ triết học Phật giáo lại phụ
thuộc chính vào việc hiểu cho đúng thuật ngữ này. Tất cả những gì đã được
trình bày về dharma trong các tài liệu Âu châu là hoàn toàn không rõ ràng
và khó hiểu.
Phật giáo, từ lâu, đã thu hút được sự chú ý như một trong những tôn giáo
thế giới duy nhất có thể đem so sánh với Thiên chúa giáo và Hồi giáo về
mức độ ảnh hưởng và phổ cập đối với các dân tộc thuộc các chủng tộc rất
khác nhau nhất. Hơn thế nữa, Phật giáo như là một lực hút kỳ lạ làm người
này ghét, khiến người kia yêu. Người ta coi Phật giáo hoặc như một điển
hình thời ngẫu tượng, hoặc như một điển hình tôn giáo kiểu như Thiên chúa
giáo, hoặc như một tôn giáo dung hòa được với khoa học hiện đại, hoặc như
một tôn giáo của tương lai.
Sở dĩ có tình trạng đánh giá khác nhau như vậy vì văn bản Phật giáo và bản
chất hệ thống triết học của Phật giáo còn chưa được nghiên cứu được đầy đủ
và thật khách quan như các hệ thống triết học tôn giáo khác. Nhiều công
trình nghiên cứu bộc lộ khuynh hướng chủ quan, hoặc luận chiến, hoặc chống
đối Phật giáo, hoặc biện hộ…Thậm chí có cả những công trình phủ nhận lịch
sử thực của giáo điều và triết học Phật giáo.
Chỉ khi lịch sử phát triển của tư duy triết học Phật giáo được nghiên cứu
đầy đủ, rõ ràng, thì sẽ không còn những phán xét không thật khách quan,
thì chúng ta sẽ thấy đạo Phật không bao giờ dạy tín đồ của mình rất nhiều
điều mà địch thủ của họ gắn cho họ. Chỉ khi nào Phật giáo được nhiên cứu
kỹ như một thế giới quan triết học tôn giáo gồm cả những thành tựu và
khiếm khuyết thì khi đó nó mới giành được vị trí của mình bên cạnh những
hệ thống khác trong lịch sử tôn giáo và triết học.
Tuy vậy, giờ đây đã có thể nói rằng, Phật giáo hoàn toàn không có cái gì
là mù mờ, khó hiểu cả, hoàn toàn không phải là một học thuyết thần bí,
không hề giống tư tưởng châu Âu, như một số nhà nghiên cứu nêu ra. Cả
trong Phật giáo, cả trong triết học Ấn độ nói chung, về thực chất, không
có gì là kỳ lạ và khó hiểu cả đối với chúng ta - những người Âu. Nhưng,
những vấn đề mà chúng ta cũng biết lại được người Ấn độ xem xét lý giải,
làm sáng rõ theo những quan điểm khác. Vì vậy, triết học Ấn độ, khi đã
được nghiên cứu chi tiết, sẽ làm phong phú thêm và bổ sung thêm cho triết
học Âu châu.
Khi soạn thảo công trình này, chúng tôi theo đuổI những mục đích sau.
Chúng tôi muốn trình bày những kết quả mà mình trực tiếp thu được qua khảo
cứu truyền thống kinh viện sống động, qua văn bản giáo lý của Nhật bản.
Bằng cách đó, chúng tôi muốn nghiên cứu Phật giáo trên những nguồn cứ liệu
mà hầu như cho đến nay còn chưa được khai thác hoặc chỉ được khai thác quá
ít ỏi.
Qua nguồn tài liệu mới, chúng tôi cảm thấy, khái niệm “dharma” có một ý
nghĩa quyết định đối với triết học Phật giáo cũng như khái niệm “tư tưởng”
đối với triết học Platon. Trình bày giáo lý kinh viện của Phật giáo như
luận thuyết về dharma (Pháp) dưới dạng một hệ thống đầy đủ, hoàn chỉnh của
những học thuyết về kinh nghiệm về giải thoát, tức về tồn tại và chân như
siêu hình, và nhấn mạnh ý nghĩa tư tưởng triết học chủ yếu này đối với
Phật giáo, cho đến nay là một công việc chưa ai lưu ý tới và chưa được
tiến hành.
Lôgíc học và những vấn đề chuyên về nhận thức luận là những vấn đề cực kỳ
quan trọng của Phật giáo, nhưng lại không được đề cập đến trong công trình
của chúng tôi, vì rằng những vấn đề đó đã được phân tích tỉ mỉ trong
chuyên khảo của giáo sư F. I. Serbatskôi.
Cuối cùng, trong khi trình bày những điểm cốt yếu của Phật giáo, chúng tôi
sẽ cố gắng dùng ngôn từ thông dụng trong các sách vở về triết học của
chúng ta, cố tránh những thuật ngữ quá ước lệ và quá chuyên sâu, cố không
dẫn ra những loại văn bản trích từ kinh sách, để tập trung vào phân tích
những vấn đề chính. Khi truyền đạt những thuật ngữ, chúng tôi sẽ cố nắm
bắt bản chất học thuyết triết học của chúng, trước hết trên cơ sở những
tài liệu mà chúng tôi trực tiếp sử dụng được và có trong tay - những tài
liệu Nhật bản và Trung quốc, rồi đem bổ xung và đối chiếu thuật ngữ đó với
các tài liệu bằng tiếng Sanskrit.
Xin lưu ý độc giả một điều nữa, trong công trình này, chúng tôi sử dụng
các thuật ngữ gốc bằng tiếng Sanskrit để thay cho các thuật ngữ bằng tiếng
Nhật hay Trung quốc. Sở dĩ chúng tôi làm như vậy là bởi vì, nếu làm ngược
lại, thì tác phẩm này lại không có một gắn bó gì với khối sách vở Âu châu
viết về Phật giáo. Những đối sánh bằng tiếng Nhật và Trung quốc được đưa
vào phần chú thích chứ không cho vào văn bản chính. Bởi lý do đó, nên
trong phần chính của công trình, sẽ ít gặp các từ Nhật bản, mặc dầu công
trình lại gắn bó rất chặt chẽ với mảng văn bản giáo lý của Nhật bản.
Petrôgrat, tháng 3 năm 1918
O. Rôzenberg
--- o0o ---
Mục Lục |
01
|
02
|
03 |
04
|
05 |
06 |
07
|
08 |
09 |
10
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19
--- o0o ---
Vi tính: Chúc Thượng
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật:
01- 4-2004