II
VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO Ở
NHẬT BẢN VÀ TRUNG QUỐC
Mối quan hệ lẫn nhau vừa được trình bày của những
yếu tố trong văn hóa tôn giáo ở Nhật bản là cực kỳ quan trọng để hiểu đúng
mảng tài liệu Phật giáo Nhật bản hiện đại, xuất hiện trong mười năm gần
đây rất đa dạng về thể loại và khuynh hướng.
Toàn bộ tài liệu Phật giáo hiện đại có thể phân thành hai loại: Phần thứ
nhất gồm những tài liệu về học thuyết và lịch sử các tông phái vẫn còn tồn
tại cho đến ngày hôm nay. Phần thứ hai là các nghiên cứu về Phật giáo cổ
đại Ấn độ với tư cách là cơ sở của Phật giáo hiện đại.
Trừ những kinh quan trọng nhất, đại đa số các tác phẩm Ấn độ chỉ có ý
nghĩa lịch sử. Cái thực tế đang tồn tại ở Nhật bản đã xuất hiện vào giai
đoạn tương đối muộn ở Trung quốc và Nhật bản. Bởi vậy, không nên quá tin
vào các công trình Nhật bản nghiên cứu về Phật giáo Ấn độ. Trong các tài
liệu hiện đại về Phật giáo của Nhật bản xuất hiện hai trường phái - trường
phái cũ và trường phái mới. Các tác giả và những người ủng hộ trường phái
mới luôn phê phán những người thuộc trường phái cũ ở chỗ họ không chú ý
tới những nhu cầu của đời sống ở nước Nhật mới, mà chỉ say sưa với tính
kinh viện và chủ nghĩa duy lý của Phật giáo. Những người ủng hộ truyền
thống chỉ ra rằng muốn đổi mới và dùng cái cũ thì cần phải nghiên cứu và
biết về nó, và đừng quên rằng trong truyền thống ẩn dấu cái sức mạnh không
thể coi thường được.
Có hai khuynh hướng như vậy, cho đến nay, đã không nhất trí đối với Phật
giáo Ấn độ cổ đại và việc nghiên cứu nó. Trường phái mới của triết học
Phật giáo chịu ảnh hưởng của ngành Ấn độ học Âu châu do giáo sư Nandzio
đưa vào Nhật bản 25 năm trước. Việc nghiên cứu ngôn ngữ Sanskrit tiến
triển rất chậm. Các Phật tử Nhật bản học tiếng Sanskrit ở Âu châu, còn
những học trò của họ vừa không được nhiều vừa thờ ơ với những từ ngữ mà họ
cho là không cần thiết đối với Nhật bản. Các Phật tử của trường phái cũ
chê họ là đã bị cuốn hút bởi văn học Âu châu, và như vậy là đã bị cắt đứt
với những truyền thống sống động.
Các nhà đại diện của triết học Ấn độ chỉ với nỗ lực to lớn mới giành được
sự thừa nhận. Bây giờ ngôn ngữ Sanskrit được nói tới trong tất cả semina
Phật giáo lớn. Tuy nhiên, cho đến nay, khối lượng giáo trình và những kết
quả đạt được ở Nhật không thể so với tình hình nghiên cứu Ấn độ ở Âu châu,
nhưng đã tạo ra cơ sở cho việc xích gần Ấn độ với Nhật bản.
Do tình hình như vậy nên, các đại diện của trường phái mới đành phải đi
tới một sự thỏa hiệp. Thoạt đầu, để đáp lại những gì mà trường phái cũ
nói về mình, họ không thừa nhận những giá trị của truyền thống, coi lời lẽ
của nhà phê phán không biết tiếng Sanskrit là không đáng chú ý và cho rằng
chỉ có trường phái mới mới thực sự biết Phật giáo vì trường phái đó có
hiểu biết triết học Ấn độ và nghiên cứu văn bản nguyên gốc. Dần dà thời
gian đã chứng tỏ các nhà đại diện truyền thống đã đúng vì tri thức ngữ văn
không bao giờ có thể thay thế truyền thống triết học được. Trong lĩnh vực
này, trường phái cũ, dĩ nhiên, có một nguồn tài liệu phong phú hơn là các
văn bản tiếng Trung quốc được hệ thống hoá, còn trường phái mới chỉ nghiên
cứu các mẫu văn bản vụn Sanskrit đã mất mát, mà lại qua tài liệu Âu châu.
Để dựng nên các hệ thống Phật giáo Ấn độ ở thời kỳ phát triển rực rỡ nhất,
truyền thống Nhật bản – Trung quốc cổ có giá trị hơn là tài liệu của
trường phái mới nghiêng về chủ nghĩa triết chung, san bằng những khác biệt
của các tông phái và tóm lược luận chứng kinh viện.
Những người cách tân không phản đối cái đó. Mặt khác trường phái cũ bắt
đầu ý thức được rằng để hiểu về triết học Ấn độ, không thể thiếu tri thức
Sanskrit và triết học Ấn độ được. Vì vậy đã tạo ra khả năng hợp tác. Kết
quả của việc hợp tác đó trong việc nghiên cứu triết học Ấn độ đã đạt được
cái điều mà ngành Ấn độ học ở Âu châu hy vọng là muốn có sự tham gia của
các nhà Phật tử bác học Nhật bản. Tuy nhiên, chưa có thể chờ đợi những
người Nhật bản, khi nào đó, sẽ thiên về hay có khả năng trình bày những
kết quả trong các công trình bằng các ngôn ngữ Âu châu. Bởi lẽ, để truyền
đạt các thuật ngữ Phật giáo cho đến nay không có thuật ngữ chung được thừa
nhận không chỉ bằng các ngôn ngữ Âu châu mà cả bằng ngôn ngữ Nhật bản.
Những người Nhật bản dùng những câu Trung quốc cũng giống như chúng ta
dùng những câu Hy lạp, và không thể đòi hỏi người Nhật chuyển các câu này
sang các thuật ngữ tiếng Anh hoặc thứ tiếng Âu châu khác. Công việc như
vậy là quá khó, vì tính phức tạp của hệ thống thuật ngữ Phật giáo.
Vẫn là một lối thoát có hiệu quả nhưng giản đơn hơn: Để nghiên cứu Phật
học theo nguồn tài liệu trung quốc cần phải học tiếng Nhật. Việc nắm được
tiếng Nhật đối với các nhà ngữ văn Âu châu còn dễ hơn nhiều là việc học
viết bằng một trong những ngôn ngữ Âu châu đối với các bác học Nhật bản.
Ngoài ra, cả một nguồn phong phú về tài liệu sẽ được mở ra khi có hiểu
biết tiếng Nhật, chỉ vì một phần không đáng kể các tài liệu đó có thể
chuyển sang các ngôn ngữ Âu châu. Dĩ nhiên, đối với nhà Ấn độ học đã có
hiểu biết về triết học và khoa học Âu châu sẽ cực kỳ dễ dàng làm một tuyển
tập những tài liệu nào cần thiết, mà người Nhật còn chưa làm.
Cần phải nhìn thấy một loạt những đặc điểm trong phương pháp của những nhà
bác học Nhật bản thuộc cả hai trường phái cũ và mới, khi nghiên cứu tài
liệu hiện có để làm cơ sở cho việc nghiên cứu Phật giáo Ấn độ theo những
nguồn tài liệu Nhật bản.
Các tác giả Âu châu khi sử dụng tài liệu Nhật bản, dù cả hai có sự giúp đỡ
của những dịch giả, đã không chú ý đến điều đó một cách đầy đủ. Bởi vậy
cần dừng lại kỹ hơn ở vấn đề đặc trưng của truyền thống và các tác phẩm
mới về Phật giáo.
Thật là sai lầm lớn nếu nghĩ rằng mọi sáng tác hiện đại của Nhật bản có
nội dung tôn giáo như là nguồn tài liệu gốc, hay cho một quan niệm của một
học thuyết nào đó đều có uy tín, vì người Nhật hay người Trung quốc đã nói
đến. Nhiều tác giả đã rơi vào sai lầm này, và điều đó đã được phản ảnh
qua những tác phẩm của họ.
Trong hàng chục nghìn những tông phái tăng lữ khác nhau có tương đối ít
những người hiểu biết thực sự về các giáo lý và kinh viện. Vẫn còn một số
người hiến dâng cả đời mình cho việc nghiên cứu lịch sử giáo lý của Phật
giáo và triết học Ấn độ.
Sự thận trọng đặc biệt là cần thiết khi nói về các học thuyết không phải
Nhật bản mà là Trung quốc hay Ấn độ cổ đại. Thứ nữa không nên quên rằng,
truyền thống trực tiếp của các trường phái Ấn độ cổ xưa nhất đã chấm dứt
trong một vài thế kỷ trước. Cái mà bây giờ gọi là truyền thống chỉ là phần
nào truyền thống của sự phục hưng thời trung đại.
Như ta đã thấy, đời sống tôn giáo và tư duy triết học vẫn còn nằm trong
giai đoạn chuyển tiếp với một vài sự hỗn độn đã được nói tới trong các tài
liệu phổ biến cũng như trong tài liệu khoa học phổ biến của một số nhà sư
truyền đạo. Nhưng, trong các tài liệu nghiên cứu có thể tìm thấy không ít
những sự bất đồng. Điều đó không có gì là lạ vì: Trong Phật giáo có nhiều
vấn đề khó đã được tranh luận trong suốt nhiều thế kỷ, và ngày càng trở
nên phức tạp hơn. Đây là hiện tượng chung. Ví như ở châu Âu chưa cần nói
đến vấn đề của triết học Hy lạp, chỉ quanh học thuyết của Kant đã có những
giải thích thật khác nhau. Không nên quên về khả năng của hiện tượng như
vậy khi nghiên cứu văn bản phương Đông. Nhiều khẳng định sai lầm về Phật
giáo Nhật bản cũng như Trung quốc là những kết quả được rút ra từ những
tài liệu không đầy đủ và không được đánh giá đúng.
Vẻ ngoài của các tài liệu Nhật bản hiện nay đã đưa đến lầm lẫn như vậy.
Các tác phẩm được xuất bản tốt và có bìa ngoài như các sách vở của phương
Tây. Nhưng những người am hiểu Phật giáo lại không phê phán một tác phẩm
nào trên các tạp chí cả. Tuy nhiên, không nên quên rằng nền khoa học Nhật
bản, đặc biệt là ngữ văn học cho đến nay vẫn còn khác xa so với Âu châu về
mặt phương pháp và cách làm.
Những người có hiểu biết về tài liệu gốc cổ đại thì ít hoặc hoàn toàn
không quan tâm theo dõi những nghiên cứu mới. Họ càng ít quan tâm hơn đến
các tác phẩm do người Nhật viết bằng tiếng châu Âu, dùng cho người châu
Âu.
Bởi vì trong đại đa số trường hợp những đại diện của trường phái cũ hoàn
toàn không biết ngoại ngữ. Thậm chí dù có đọc một tác phẩm tồi, nhà bác
học của trường phái cũ cũng không lên tiếng phê phán vì chê một tác phẩm
không nổi tiếng sẽ làm cho phẩm chất của mình bị hạ thấp, còn công kích
bạn bè vì tác phẩm không thành công là bất nhã. Những người Nhật bản khó
quen được với tư tưởng phê bình khách quan. Mọi sự phê phán, theo ý kiến
họ, đều là sự xúc phạm. Tất nhiên quan điểm như vậy ngăn cản mạnh mẽ sự
trao đổi các ý kiến.
Ngoài ra các nhà học giả của trường phái cũ lập luận như sau: Muốn hiểu
đúng đắn Phật giáo cần phải nghiên cứu trên cơ sở những tài liệu gốc, tức
các văn bản Trung quốc.
Những công trình của người Nhật được nhắc tới nhiều nhất ở Âu châu là:
“Danh mục” của giáo sư Nandzio, các bản dịch “Lược khảo 12 tông phái” bằng
tiếng Anh của giáo sư Nandzio, bằng tiếng Pháp của Phudzisima và những
công trình của Suzuki chủ yếu là lược giải về Đại thừa.
“Danh mục” của giáo sư Nandzio dù có những công hiến lớn, nhưng vẫn có một
thiếu sót lớn: Không nhắc gì đến các tác phẩm chú giải của Trung quốc
cũng như Nhật bản, vì thế mà “Danh mục” đã gây ra một ấn tượng cho rằng để
nghiên cứu tài liệu dịch Phật giáo chỉ cần sử dụng các phẩm kinh điển
Trung quốc là đủ.
Các bản dịch “Lược thảo 12 tông phái” bằng tiếng Anh và tiếng Pháp cũng
không biểu hiện sự hiểu biết của những dịch giả với tri thức sách vở
truyền thống. Các thuật ngữ được chuyển nguyên từ đối từ chứ không có
những giải thích, không có những trích dẫn tài liệu gốc. Các bản dịch
“Lược thảo 12 tông phái” không thể được xem là tài liệu gốc để nghiên cứu
Phật giáo Nhật bản.
Suzuki trong “Lược thảo về đại thừa” hướng trực tiếp đến công chúng Âu
châu với khuynh hướng biện hộ khó rõ. Tác giả là giáo viên tiếng Anh và
có quan hệ với một thiền phái trực giác thần bí của Nhật bản. Mặc dù có
những thiếu sót và không chính xác, cuốn sách của Suzuki là cực kỳ hay, và
như tác phẩm phản ánh quan điểm của nhiều người Nhật bản có giáo dục quan
tâm đến Phật giáo.
Về hiện trạng của Phật giáo và truyền thống Phật giáo ở Trung quốc chỉ
được xem xét trên cơ sở những tài liệu quá ít ỏi. Hiển nhiên là Phật giáo
ở Trung quốc đang trong tình trạng suy sụp, và hoạt động của nó không thể
so với tính tích cực của Phật giáo ở Nhật bản.
Thực tế, có nhiều chùa lớn đã thu hút hàng nghìn nhà hành hương. Điều đó
chỉ ra rằng, trong quần chúng nhân dân đông đảo, những hình thức giản đơn
bình thường của Phật giáo đang sống cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo ở
Trung quốc đã không bao giờ và không có thể có ảnh hưởng như ở Nhật bản.
Nền giáo dục Trung quốc không có quan hệ với Phật giáo, trong khi đó ở
Nhật bản, trong vòng nhiều thế kỷ, các chùa Phật giáo chính là các lò giáo
dục. Trong lịch sử giáo dục Nhật bản, các Phật tử chiếm một vị trí tôn
kính, và ngày nay, vị trí đó không mất đi. Không ít những giáo sư và
những nhà hoạt động giáo dục hiện nay ở các trường cao đẳng xuất thân từ
giới tu hành, hay có quan hệ nào đó với Phật giáo. Ở Trung quốc lịch sử
giáo dục không liên quan với lịch sử Phật giáo.
Về các tông phái Phật giáo ở Trung quốc hiện đại có thể xét đoán theo lược
khảo ngắn gọn giống như “Lược khảo 12 tông phái” của Nhật bản đã nhắc đến
ở trên, được Garmann dẫn ra trong văn bản dịch. Trong lược khảo này cũng
như trong công trình mới nhất về Phật giáo Trung quốc “Buddhist China” của
Jonston, đã chỉ ra các tông phái hiện có ở Trung quốc:Tông phái thờ Phật
Adiđà và tông phái trực giác thần bí-thiền. Điều này chứng tỏ ở Trung quốc
các tư trào tôn giáo và siêu hình thuần túy đóng vai trò chủ đạo.
Như vậy, một cách nghiên cứu Phật giáo đã được hình thành với sự hỗ trợ
của những tài liệu Nhật bản cần tìm ra truyền thống thực của Phật giáo
Trung-Nhật. Trên cơ sở đó, kết hợp với những tài liệu bằng tiếng Sanskrit
và củaTây tạng, chúng ta có thể tìm ra nội dung của văn bản Phật giáo Ấn
độ. Đến lượt mình, tài liệu Phật giáo Ấn độ lại cho ta khả năng tiến hành
xem xét một cách phê phán đối với văn bản Trung quốc và Nhật bản.
Cuối cùng chúng ta sẽ làm sáng tỏ một hiện tượng văn hoá – Tôn giáo đã
liên kết Ấn độ với Đông Á và đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát
triển của Ấn độ, Trung quốc và Nhật bản. Không thể nghiên cứu văn hoá các
nước này mà thiếu hiểu biết về Phật giáo, cũng như không thể không biết về
triết học về Hy lạp và Thiên chúa giáo khi nghiên cứu văn hoá châu Âu.
--- o0o ---
Mục Lục | 01
| 02
|
03 |
04
|
05 |
06 |
07
|
08 |
09 |
10
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19
--- o0o ---
Vi tính: Chúc Thượng
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật:
01- 4-2004