III
CÁC GIAI ĐOẠN TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
VASUBANDU VÀ HUYỀN TRANG
Lịch sử triết học Phật giáo ở Ấn độ còn được nghiên
cứu không nhiều, đặc biệt là giai đoạn nguyên thủy. Niên đại của những
đại diện quan trọng nhất của Phật giáo, như Asvagosa (Mã Minh), Nagarjuna
(Long Thọ), thậm chí cả Vasubandu (Thế Thân), cho đến nay, vẫn còn được
tranh luận.
Mặc dầu, các văn bản liên quan tới những vấn đề về niên đại có một tầm
quan trọng lớn, nhưng, những luận cứ, những tài liệu mang tính chất tiểu
sử, có trong những văn bảng đó, đều chỉ có một ý nghĩa thứ yếu đối với
việc làm sáng tỏ lịch sử tư duy Phật giáo. Bởi lẽ, dù cho có thể xác lập
được một cách hoàn toàn chính xác các niên điểm của các nhà hoạt động Phật
giáo, thì vẫn cứ phải giải quyết vấn đề, liệu có phải tác phẩm có ghi chép
về một tác giả là của tác giả đó hay không. Muốn xác định được vị trí của
một tác phẩm này khác, trong lịch sử tư duy Phật giáo, nhất thiết phải dựa
trên cơ sở khảo cứu kỹ nội dung của tác phẩm đó. Để làm được việc đó, cần
thiết phải có một sơ đồ sơ bộ về những vấn đề cơ bản của Phật giáo cũng
như lịch sử những giai đoạn chủ yếu nhất về con đường phát triển triết học
Phật giáo. Những điều vừa nói sẽ được xác định chính xác hơn, nếu dựa
trên cơ sở những luận giải truyền thống của các tác phẩm quan trọng nhất
hiện còn.
Trong lịch sử triết học Phật giáo, có thể xác lập nên ba thời kỳ lớn.
Thời kỳ được gọi là thời kỳ của Tiểu thừa thuần tuý và các nhánh của nó,
tức Phật giáo nguyên thủy; Thời kỳ xuất hiện Đại thừa và đấu tranh giữa
Đại thừa và Tiểu thừa; Thời kỳ chiến thắng và hưng thịnh của Đại thừa.
Trong các tài liệu dịch của Trung quốc, còn giữ lại dấu tích của tất cả
các thời kỳ vừa nêu trên, hơn thế nữa, một số tác phẩm quan trọng có trong
hai, ba bản dịch khác nhau.
Thuộc thời kỳ nguyên thủy có tác phẩm Mahavibasa đồ sộ và một loạt những
bản luận ngắn hơn. Dựa vào các tài liệu này, có thể tìm ra những khái
niệm rõ ràng về cuộc tranh luận giữa các tông phái thuộc thời kỳ kinh viện
cổ xưa của Phật giáo. Những tư liệu trong Abidharma bằng tiếng Pali cũng
rất đáng được lưu ý khi nghiên cứu thời kỳ này.
Thời kỳ thứ hai bắt đầu vào khoảng đầu công nguyên. Đối lập với các học
thuyết của những nhà Vaibasika và của những hệ thống gần gũi với các học
thuyết này là những tư trào mới, những công kích mang tính phê phán và
những cố gắng diễn đạt theo kiểu mới: Đây là thời kỳ của Nagarjuna và
Asvagosa. Thời kỳ này kết thúc bằng hoạt động của Vasubandu và Asanga (Vô
Trước). Vào thời gian này, triết học Tiểu thừa tiếp tục phát triển hưng
thịnh và đạt tới đỉnh cao ở Sangabadra và trong những tác phẩm của
Vasubandu thời kỳ đầu hoạt động.
Ở Ấn độ, thời kỳ này được đánh dấu bằng sự hưng thịnh không chỉ của Phật
giáo mà của cả Bàlamôn giáo. Vào thời kỳ này, tồn tại nhiều khuynh hướng
triết học rất khác nhau, Đại thừa vẫn chưa át được Tiểu thừa và chủ nghĩa
thần bí chưa thắng được chủ nghĩa duy lý. Cùng một lúc, ở một số trường
phái này thì đi vào lôgíc, còn các trường phái khác lại phát triển những
học thuyết thuần túy thần bí về thiền định.
Những người đặt nền tảng giáo điều cho thời kỳ thứ ba là Asanga và
Vasubandu, giai đoạn đã chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Thời kỳ này
bắt đầu bằng chiến thắng của Đại thừa và tiếp tục bằng sự phát triển của
Đại thừa thành các nhánh, các tông phái.
Mối quan hệ của Đại thừa với Tiểu thừa và những vấn đề liên quan tới mối
quan hệ đó của lịch sử triết học Phật giáo còn được đề cập tới ít trong
các công trình nghiên cứu về Phật giáo. Các nhà học giả do xuất phát điểm
từ việc nghiên cứu Phật giáo đại chúng Xây Lan, nhìn thấy trong Đại thừa
sự thái hoá của Phật giáo và coi Đại thừa như chủ nghĩa đa thần giáo,
Saman giáo, v.v…Ngược lại các nhà văn, các nhà Đại thừa người Nhật lại cho
học thuyết của Tiểu thừa là “nhỏ” không thể sánh được với Đại thừa về sự
uyên thâm, và cho Đại thừa là một bước tiến lớn về phía trước trong việc
phát triển đạo Phật như một tôn giáo.
Về những đặc trưng nội tại của hai dòng Phật giáo, chúng tôi sẽ trình bày
sau, ở chương nói về các nhánh và các tông phái Phật giáo. Dường như, sở
dĩ có sự đánh giá không thuần nhất như vậy là do cái được đem so sánh lại
không phải là những tư tưởng chính yếu của cả hai dòng Phật giáo mà là cái
gì đó khác biệt nhau, cụ thể là: Đem luân lý của nhà sư thời Phật giáo
nguyên thủy đối lập với tích saman (phù thủy) phổ cập của vùng Trung và
Đông Á, hay đem chủ nghĩa duy lý của các bản luận Tiểu thừa đối lập với
những xúc cảm ít được xác định nhưng lại mạnh tính thần bí và tôn giáo của
các nhà Đại thừa. Đáng lẽ phải so sánh đạo đức của dòng này với dòng khác,
hay tính kinh viện của hai dòng với nhau hoặc tính mê tín trong dòng này
với dòng khác, v.v…thì họ lại cố tạo ra một sự không cân đối. Kết quả là
chỉ đem lại được những điều phi lý và sự đánh giá không đúng về triết học
của Tiểu thừa.
Khi nghiên cứu các khuynh hướng khác nhau của Phật giáo, tiện lợi hơn cả
là nên xuất phát từ việc phân tích mảng tư liệu nói tới tất cả các xu
hướng quan trọng nhất và cuộc đấu tranh giữa chúng. Mảng tư liệu đó là
những tài liệu thời kỳ Đại thừa chiến thắng. Hai dòng Phật giáo Đại thừa
và Tiểu thừa còn rất gần nhau trong các bản luận của Vasubandu. Theo tư
duy của Vasubandu, cũng như theo những kiến giả truyền thống, dường như
dưới tác động của Asanga, đã diễn ra bước ngoặt có lợi cho Đại thừa.
Vasubandu chiếm một vị trí trung tâm và cực kỳ quan trọng trong lịch sử
văn học triết của Phật giáo. Tác phẩm Abidharmakosa của ông được xây dựng
trên những học thuyết của các nhà Vaibasika và Santrantika đã khiến
Sanyabadha đáp lạ bằng bản luận Nya-anusarasastra. Bản luận này của
Sangabadha là hệ thống của các nhà Vaibasika theo khuynh hướng truyền
thống. Những câu châm ngôn của Abhidharmakosa cùng cả trật tự bố cục của
mình trở thành cơ sở cho bàn luận Nya-anusarasastra. Trong khi luận giải
những câu châm ngôn đó theo học thuyết của các nhà Vaibasika chính thống,
Sangabadra đã cố bác bỏ quan niệm của Vasubandu. Hai tác phẩm này của
Tiểu thừa muốn mở ra cho chúng ta con đường để hiểu các văn bản phong phú
của Tiểu thừa nguyên thủy như Mahabibasasastra, và Djnanarastana cùng sáu
bản luận kèm theo.
Việc đánh giá đúng việc tranh luận của Nagarjuna trong tác phẩm
Madhyamikasasta của ông cũng phụ thuộc vào sự hiểu biết những tác phẩm
được viết dựa trên cơ sở luận thuyết của các nhà Sarvastivadin, vì rằng
trong cuộc tranh luận của các nhà Sunyavadin, Nagarjuna chủ yếu là chống
lại các nhà Vaibasika.
Lúc đầu Vasubandu phủ nhận Đại thừa. Nhưng sau đó, dường như chịu ảnh
hưởng của Asanga, ông đã thay đổi thế giới quan của mình. Ông đã “hối
cải”, đã đứng lên bảo vệ Đại thừa và lập ra một hệ thống mới. Vasubandu,
trong hệ thống mới của mình đã hòa hợp cả học thuyết của các nhà
Yogasara-vijnanavadin và học thuyết được trình bày trong Abhidharmakosa
vào một chỉnh thể.
Việc chuyển đổi như vậy, từ Tiểu thừa sang Đại thừa, trong một con người,
đặc biệt tạo cho ta khả năng làm sáng tỏ những quan điểm tiếp cận chính
của hai dòng. Quan điểm của các nhà Vijnanavadin – Yogasara có hơi khác
quan điểm của các nhà Vijnanavadin, nhưng khác khá nhiều so với trường
phái sớm của Asvagosa - người thiết lập ra một hệ thống trong tác phẩm
Mahaynasraddotpadasastra. Hệ thống của Asvagosa có ảnh hưởng tới tất cả
các tông phái muộn của Đại thừa phương Đông.
Ảnh hưởng của Vasubandu đối với sự phát triển tiếp của Phật giáo hệ thống
không kém phần quan trọng hơn so với quan hệ của ông với nền triết học
trước ông. Xuất thân từ trường phái do Vasubandu lập ra có Dignaga và
Darmakirti. Hai người này đã đưa lôgíc và học thuyết về thức của Phật
giáo tới đỉnh cao. Những tác phẩm của Dignaga và Darmakirti không hiện
diện trong nguồn tài liệu tiếng Trung quốc, ngoại trừ một bản luận nhỏ về
lôgíc của Dignaga. Truyền thống lôgíc Phật giáo được Huyền Trang đem ra
khỏi Ấn độ, đã nhập vào thành phần của bản chú giải lớn do Kuizi soạn cho
bản luận ngắn của Sankarasvamin.
Huyền Trang, nhà chiêm bái và nhà bác học nổi tiếng của Trung quốc thế kỷ
VII, đã vĩnh viễn đem đến cho Phật giáo phương Đông một điểm tựa khoa học
- Ngữ văn và triết học mà cho đến nay vẫn không hề thay đổi và bị lạc hậu.
Trong các tài liệu châu Âu, hầu như không có một chỉ dẫn nào nói về ý
nghĩa của Huyền Trang và trường phái của ông đối với lịch sử Phật giáo.
Ở phương Đông, vị tổ của Phật giáo thời hưng thịnh được gắn cho Vasubandu,
còn vị tổ của truyền thống hiện đại chủ yếu trong lĩnh vực giáo lý, là
Huyền Trang, người nhiệt thành truyền bá triết học Đại thừa của
Vasubandu. Nhưng, việc Huyền Trang còn dịch cả những tác phẩm Tiểu thừa,
chứng tỏ ông hiểu rõ mối quan hệ cội nguồn của hai dòng Phật giáo.
Huyền Trang có nhiều học trò, trong số đó, nổi tiếng hơn cả là Kuizi
(người Nhật gọi là Kiki) hay còn được gọi với cái tên là Dzuentaisi (tiếng
Nhật: Dziondaisi) và Fuguan (tiếng Nhật: Kuko) Kuizi là người thừa kế của
Huyền Trang về triết học Đại thừa Vansubandu cũng như về lôgíc. Còn
Fuguan thì được thầy truyền cho truyền thống Tiểu thừa. Kết quả công việc
hợp tác cùng làm giữa Huyền Trang và các học trò gần gũi là một loạt những
bản dịch đồ sộ và những chú giải. Trong các luận giải phong phú đó, có
tất cả những tri thức truyền thống mà Huyền Trang đem từ Ấn độ về.
Không có một dịch giả nào hay một nhà chú giải nào của Trung quốc có thể
sánh nổi với Huyền Trang về sự hiểu biết văn bản của tất cả các hệ thống
Ấn độ, cũng như về tính vô tư trong quan hệ với Tiểu thừa như chỗ dựa cần
thiết cho triết học Phật giáo.
Tất cả những bản dịch cũng như chú giải đều được Huyền Trang biên tập, cho
nên, các thuật ngữ trong các bản dịch và chú giải đều thống nhất. Những
chú giải được viết trực tiếp và được dịch chứ không giữ nguyên gốc. Ngoài
ra, những chú giải đó nhằm vào những độc giả Trung quốc còn chưa biết gì
về các học thuyết của Ấn độ. Trong các chú giải có rất nhiều những tri
thức sơ đẳng mà xét theo quan điểm của nhà chú giải Ấn độ thì được coi là
không cần thiết và thường bị bỏ. Thành phần kiểu như vậy của các lý giải
thật là quan trọng đối với chúng ta, nó giúp chúng ta rất nhiều trong việc
hiểu văn bản.
Ý nghĩa lịch sử - văn học của Huyền Trang là ở chỗ, ông đã tạo ra một thứ
tiếng Trung quốc có thể diễn đạt được một cách chính xác và rõ ràng những
lập luận của các nhà triết học Ấn độ mà không cần chú thích gì cả. Nếu so
sánh những bản dịch nặng nề trước đó mà các nhà truyền đạo Ấn độ đã làm ở
Trung quốc thì cách dịch của Huyền Trang và các học trò của ông tinh tế
hơn, phổ cập hơn. Những bản dịch của Huyền Trang hầu như thay toàn bộ
nguyên bản, chỉ trừ một số chỗ bàn về những thuật ngữ quá chuyên.
Nếu chúng ta biết rằng, giữa hệ thống văn tự và ngôn ngữ Ấn độ với hệ
thống chữ viết tượng hình diễn ý của Trung quốc, giữa phong cách thích
dùng châm ngôn của các triết gia Trung hoa với phong cách kinh viện Ấn độ
khác nhau đến mức nào, thì việc dịch chuẩn xác như của Huyền Trang quả là
đáng kinh ngạc.
Ảnh hưởng của Huyền Trang thật là lớn, nhờ ảnh hưởng đó mà Phật giáo được
củng cố vững chắc không chỉ ở Trung quốc mà cả ở Nhật bản. Kinh đô Trung
quốc thời đó là trung tâm của học thuật và văn hoá tinh thần, các học giả
từ các nơi tấp nập tới đây để trau dồi học vấn. Các văn bản có nói tới
một loạt sứ đoàn Nhật bản tới Trung quốc. Trong thành phần các sứ đoàn
đó, có các Phật tử đến để học thầy Huyền Trang và các học trò của Ngài.
Các Phật tử Nhật bản thế kỷ VII say mê với giáo điều kinh viện: Họ lập
nên những trường phái triết học. Sự khác biệt giữa các trường phái này
phụ thuộc vào sự bất đồng của họ về cách hiểu một vấn đề này khác, ví dụ
như: “truyền thống phương Nam” và “truyền thống phương Bắc” ở Nara. Vào
thời kỳ này, tức từ thế kỷ VII đến XI, triết học của Vasubandu và Lôgíc
rất được các Phật tử chú ý. Sự hoạt động mạnh mẽ như vậy về triết học là
một điều phi thường vì, cho đến thế kỷ thứ VII, ở Nhật bản còn chưa có một
nền văn học dân tộc nào: Tác phẩm đầu tiên của ngôn ngữ Nhật bản là biên
niên sử Kodziki đầu thế kỷ VIII. Các tác giả thời kỳ này viết bằng chữ
Trung quốc; và một số tác phẩm của họ đến nay vẫn còn giá trị. Đáng tiếc
là rất nhiều tác phẩm lớn đã mất từ lâu.
Mảng văn học triết của trường phái Vasubandu đã được Huyền Trang và các
học trò của Ngài tu bổ thêm trở thành nền tảng bền vững có hệ thống để rồi
từ đó mọc lên hết nhánh này đến nhánh khác của Phật giáo phương Đông. Các
nhánh Phật giáo này khai thác nhiều những vấn đề thuần túy tôn giáo chứ ít
chú ý đến những vấn đề triết học kinh viện.
Vijnanamatra và Abhidharmakosa, cho đến nay vẫn còn là những bản luận chủ
yếu không thể thiếu được cho những ai muốn tìm hiểu khía cạnh triết học
của Phật giáo ở Nhật bản. Những tác phẩm trên, hoặc dưới dạng giản lược,
hoặc dưới dạng tóm tắt bằng tiếng Nhật, đã nhập vào giáo trình tu tập của
tất cả các tông phái Phật giáo Nhật bản.
Nhưng, tất cả những bản luận đồ sộ về giáo điều Phật giáo đều dựa về mặt
lý thuyết vào những tác phẩm cổ điển, có uy tín. Đặc điểm của những tác
phẩm này là ở chỗ, chúng tạo ra cả một hệ thống chung cho triết học Phật
giáo, cho nên, rất nhiều những bản luận về sau đều bám vào đó làm cơ bản.
Nhưng trọng điểm chú ý của các xu hướng về sau hoàn toàn không khớp với
trọng điểm của những kinh điển có uy tín. Trong khi đó, các tác phẩm mang
tính hệ thống được viết vào buổi đầu chiến thắng của Đại thừa, lại vẫn còn
là cơ sở vững chắc ngăn cản sự ly tán triệt để của các nhánh mới.
Những tông phái muộn không có một đóng góp gì mới đáng kể vào triết học
chung của Phật giáo. Triết học kinh viện Ấn độ không có đất phát triển ở
phương Đông, nó dần dần được lược giản và bị biến dạng do chịu ảnh hưởng
của các dòng tư tưởng khác nhau. Nhưng, tại Ấn độ, Vasubandu, một trong
những học giả muộn có tri thức bách khoa về toàn bộ triết học Phật giáo
trước đó, đã một mình tạo lập nên hai hệ thống hoàn chỉnh cho Phật giáo:
Đầu tiên là Tiểu thừa, sau đấy là Đại thừa.
--- o0o ---
Mục Lục | 01
|
02
|
03 |
04
|
05 |
06 |
07
|
08 |
09 |
10
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19
--- o0o ---
Vi tính: Chúc Thượng
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật:
01- 4-2004