Vài lời bày tỏ
Bấy lâu tôi có viết một số
bài về Nhận thức luận Phật giáo và Không tánh Trung quán để đăng trong
Nguyệt san Phật học ở Louisville, Kentucky, U.S.A. Đó là những bài ghi lại
những kinh nghiệm học Phật thu tập theo thứ tự diễn tiến với thời gian.
Nhìn lại quãng đời sống gần
80 năm qua nhanh như chớp điển, tôi thấy mình quả thật hạnh phúc được sinh
làm người Việt Nam. Là vì lớn lên và sống trong một giai đoạn đất nước
trải qua lắm cuộc bể dâu, tôi may mắn sớm thấy biết cách vô thường của vạn
hữu. Trên đời này không có cái gì là trường cửu bất biến, cho nên nếu vì
tham, sân, si mà bám chặt hay trói buộc mình vào bất cứ sự vật gì thời
chắc chắn chỉ rước khổ vào thân. Với những kinh nghiệm như vậy, việc học
Phật đối với tôi là điều đương nhiên, nhất là vào giai đoạn lớn tuổi, khi
có đôi chút thời giờ tĩnh lặng suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc đời sắp mãn.
Học Phật có thể ví như người
biết mình bị bệnh đi tìm thầy thuốc chữa bịnh. Pháp Phật là phương thuốc
cứu nguy. Muốn chữa bệnh thời phải thực hành Phật pháp. Nhưng nếu không có
cơ duyên gặp được vị lương y là bậc thánh thiện như chư Phật hướng đạo tâm
linh và làm nơi nương tựa thời không thể nào thực hành đúng chánh pháp hầu
chữa trị khỏi bệnh. Đó là khó khăn lớn nhất tôi đang gặp phải.
Hồi còn học lớp Đồng ấu. Mẹ
tôi thường dẫn tôi đến chùa của Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Bình, ở Đồng
Hới, miền Trung Việt Nam và thường dạy tôi đọc và học thuộc lòng Bát nhã
Tâm kinh. Dẫu không hiểu gì nhưng trong cả bài kinh, câu tôi thích nhất và
nhớ rõ ràng nhất là câu “Sắc tức thị Không, Không thức thị Sắc”. Từ đó đến
nay câu ấy không ngớt vang lên trong đầu óc tôi, luôn luôn giúp tôi thấy
biết rõ ràng những vấn đề nan giải gặp phải trong những cảnh huống éo le
trắc trở. Có lẽ vì thế mà tôi có khuynh hướng xem Phật pháp như là linh
dược trên đời này mặc dầu vô số lần tôi có cơ hội rất đẹp tiếp xúc và học
hỏi rất nhiều nơi kiến thức và nhân cách của nhiều vị lãnh đạo tinh thần
lỗi lạc của những tôn giáo khác.
Tôi nhớ lại lúc Hòa thượng
Thích Minh Châu tu học ở Ấn Độ mới trở về nước, có hỏi Thầy phải đọc sách
gì trước tiên để bắt đầu tìm hiểu Phật pháp. Thầy bảo tôi nên đọc “Những
gì đức Phật dạy” của Walpola Rahula. Về sau những tài liệu khai nhãn khác
như Luận Chỉ Quán, Luận Khởi tín, Nhiếp Đại thừa luận, Giải thâm mật kinh,
Pháp Hoa lược giải của Hòa thượng Thích Trí Quang, Lối vào Nhân Minh Học,
Luận Thành Duy thức, Vô Ngã là Niết bàn, Ngũ uẩn Vô ngã, Luận Đại trí độ
của Hòa thượng Thích Thiện Siêu v.v... là sức gia trì giúp tôi quyết tâm
tinh tấn trên đường tu học.
Trên hết, chính những lời
khuyến cáo rất tha thiết và thành khẩn trong bài văn Khuyến phát Bồ đề tâm
của Đại sư Thật Hiền do HT Thích Trí Quang dịch giải mà tôi đọc được trên
Hoa Sen Internet đã làm sáng tỏ lý do và ý nghĩa của sự phát tâm nhập đạo
và lập nguyện tu hành. Ở phần tiểu dẫn, Hòa thượng giải thích: “Về lý do
phát Bồ đề tâm, ngoài nỗi thống khổ sinh tử mà mình mục kích và ý thức, có
hai việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là tự biết mình có thể làm
Phật, và tha thiết hơn cả, nghĩ đến sự suy tàn của Phật pháp”. Theo Hòa
thượng, “phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện
mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề, kế đó phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng
phát hiện bản thể của tuệ giác ấy là chân như. Giai đoạn trước hết, chí
nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề hàm có hai tính chất mà thành ngữ
thường nói là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”.
Tìm hiểu về sự liên hệ giữa
hai câu “Thượng cầu Bồ đề, hạ hóa chúng sanh” và “Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc” là nguyên nhân dẫn tôi đến với Trung quán luận của Bồ tát
Long Thọ. Trong sách này, tánh Không được gắn liền với Duyên khởi để minh
giải thuyết Trung đạo theo đúng giáo lý của đức Thế Tôn, tức là phương
pháp tu tập để từ bỏ hai cực đoan chấp không và chấp hữu. Mọi phân tích
suy lý theo phương pháp biện chứng Trung quán đều hướng đến triển khai tuệ
quán vào tánh Không, nhận biết cách thức vạn pháp hiện hữu như thật, đúng
như cái thế duyên khởi của chúng. Do đó nếu chỉ đọc Trung quán luận bằng
trí năng mà không đồng thời học tập quán tưởng thời không thể nào không
chứng được giáo lý về tri kiến sâu xa của Bồ tát Long Thọ.
Trung quán luận mô tả lộ
trình tu tập của những hành giả tiến tu Bồ tát đạo một cách ngắn gọn nhưng
rất đầy đủ trong bài tụng XXIV.18: “Các pháp do Duyên khởi, nên ta nói là
Không, là Giả danh, và cũng chính là Trung đạo”. Duyên khởi là Không,
Không là giả danh. Vì giả danh là cái tên gọi được thiết lập y cứ vào một
tập hợp nhân duyên, nên giả danh là duyên khởi. Cách phát biểu như vậy
theo đúng thứ tự diễn tả tư tưởng Không trong câu “Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc” của Tâm kinh.
Trung quán luận sử dụng biện
chứng pháp để tiêu diệt hý luận và chỉ đường thức tỉnh chẳng những làm
phát khởi cái chí nguyện “thượng cầu Bồ đề” mà còn hỗ trợ sự tinh tấn tu
hành cho đến phát minh tuệ giác Vô thượng Bồ đề. Đó là phép quán “Sắc tức
thị Không”. Đương thể “Sắc” tức Không, đương thể là Không. Không đây là Tự
tính Không.
Về mặt “Hạ hóa chúng sanh”,
Trung quán luận xác quyết Nhị đế, tục đế và chân đế, là diệu dụng của
phương tiện và trí tuệ. Tục đế ở đây là ngôn ngữ và luận lý. Ngôn ngữ của
luận lý muốn có lợi ích phải tuôn ra từ Chân đế tức Không. Ngài Long Thọ
nói: “Do Không mà tất cả pháp được thành tựu và hợp lý”. “Không” đề cập ở
đây là “Không tức thị Sắc”, là Tha tính Không, là sự xa lìa tất cả nhiễm
pháp. Đứng về hiển tánh mà nói thời gọi là Không tánh, nhưng thật thể là
Sắc cứu cánh, là bất không.
Trung luận đả phá triệt để
mọi vọng tưởng hý luận để minh giải cho thấy giá trị của ngôn ngữ và luận
lý không ở chỗ thành công mà là ở chỗ thất bại của nó trong sự diễn đạt
Tuyệt đối. Chính do sự thất bại này mà ngôn thuyết tựu thành được Trung
đạo qua phép biện chứng. Đối với những người được giáo dục theo văn hóa
Tây phương thường quen khẳng định sự hữu (existence), phủ định sự phi hữu
(non-existence), và triệt để tuân theo luật phi mâu thuẫn của Aristotle: A
không thể vừa là A vừa là phi A, thời Trung đạo, nguyên lý bản thể luận
Phật giáo, thật là khó hiểu. Bởi vì Trung đạo là không khẳng định không
phủ định. Theo Ngài Long Thọ, Trung đạo là một tiến trình tu tập theo biện
chứng pháp, chuyển biến phương cách nhận thức thực tại từ có Duyên khởi
qua không có Duyên khởi tức Không, rồi trở lại có Duyên khởi dưới hình
thức Giả danh.
Vì những lý do vừa nêu, nên
trước khi tìm hiểu và viết về từng phẩm một của Trung quán luận, tác giả
gia công tìm tòi học hỏi nhận thức luận và quá trình phát triển tư tưởng
tánh Không Phật giáo. Các tông phái Phật giáo Trung quán quan niệm rằng
các pháp thức suy tư và biết rõ chỗ đúng sai của tư duy suy lý là rất cần
thiết cho mục đích tự ngộ. Mặt khác, hiểu rõ các phép tắc biện luận và
cách thức trình bày qua ngôn ngữ để giúp kẻ khác thông hiểu chủ trương của
mình cũng rất cần thiết cho mục đích ngộ tha.
Trong Phần Một: Nhận thức
luận Phật giáo, những nét đặc thù của nhận thức luận Phật giáo được trình
bày qua ba bài: Nhận thức luận Phật giáo, Nhận Minh luận, và Biện chứng
pháp apoha. Ba bài trước đó, thấy vậy mà không phải vậy, hãy đến mà thấy!
và Lý Duyên khởi, mô tả một cách tổng quát phương cách nhận thức khác
thường của Phật giáo và đường lối giải thích lý pháp duyên khởi qua các
giai đoạn phát triển tư tưởng Phật giáo.
Trong Phần Hai: Không tánh
Trung quán luận, bài “Trung quán luận: Phá tà hiển chánh” đặt Trung quán
luận vào giai đoạn mà có vai trò giáo hóa quan trọng nhất trong quá trình
tu chứng. Kế tiếp, bài “Nhị đế: Triết học về Không thuyết và Ngôn thuyết”
đưa ra nhận xét về sự tương tợ giữa hai hình ảnh tuyệt đẹp là sự im lặng
của đức Phật và điểm nguyên thủy của vũ trụ.
Trong công việc nghiên cứu
các quan điểm khác nhau về cách trình bày tánh Không, hai bài “Mười ba bài
tụng chủ yếu của Trung luận” và “Tánh Không phủ định cái gì?” đề cập Không
tánh Trung quán và những luận cứ dùng để phản bác sự ngộ nhận Bồ tát Long
Thọ chủ trương hư vô luận. Bài “Cái còn lại trong tánh Không” tìm cách
chứng minh rằng tuy cả hai học phái Trung quán và Du già đều lấy kinh Đại
Phẩm Bát nhã làm cơ sở tư tưởng, nhưng Du già còn tựa trên kinh Tiểu Không
để thuyết minh tánh Không. Bài “Tự tính Không và tha tính Không” nêu ra
một bên là Trung quán và Du già y cứ từ nhân duyên sanh pháp, hư vọng sanh
pháp để luận về tính siêu việt tổng hợp đối lập của tánh Không, và bên
kia, kinh Thắng Man, kinh Lăng Già, luận Khởi tín y cứ từ Như Lai tạng
tính mà thuyết minh nghĩa tánh Không là “không và bất không”. Do đó mà
phát hiện thuyết Tha tính Không liên quan mật thiết với các pháp môn tu
tập thiền quán như các giáo pháp Minh sát thiền, Thiền tông, Đại thủ ấn,
và Đại toàn thiện.
Mục đích của bài “Biện chứng
pháp Trung quán” là để biện minh luận chứng căn cứu trên tứ cú của Ngài
Long Thọ không phạm lỗi lầm đối với phi mâu thuẫn và luật triệt tam của
logic Aristotle mặc dầu có tính chất siêu việt luận lý. Những điều nói đến
trong bài này sẽ được lặp lại với nhiều chi tiết hơn khi giải thích ý
nghĩa của từng Phẩm. Ngôn ngữ Toán học dùng phát biểu một số khái niệm về
tánh Không, Pháp giới, và biện chứng pháp cũng được đề cập trong bài “Toán
ngữ và Tứ cú”.
Bài mở đầu “Ngôn ngữ và Biện
chứng” và hai bài gần cuối “Hý luận về Không”, “Sinh mệnh tức Không” dùng
nhãn quan và ngôn ngữ Phật giáo để phân tích một số thành quả của Vật lý
học và Sinh học hiện đại.
Cuối cùng, bài Nhận thức và
Không tánh ở Phần Ba tổng kết hai Phần đầu và luận bàn về “Bài tụng tán
khởi” với mục đích nối kết tập sách này với tập sách kế tiếp. Tập sách này
mới là phần đầu của quyển “Tìm hiểu Trung quán luận” mà tác giả dự định
viết. Phần giữa sẽ gồm những bài giải thích 27 Phẩm của Trung quán luận và
phần cuối sẽ trình bày về các tông phái Phật giáo Trung quán.
Quyết định viết bàn về một
tác phẩm có tiếng khó hiểu như Trung quán luận tất có sự khích lệ và hỗ
trợ lớn lao của nhiều bậc thiện tri thức. Số là ở Louisville, tiểu bang
Kentucky, Hoa Kỳ, nơi tôi cư ngụ, hơn thập niên nay, có một nhóm Phật tử
trẻ tuổi hơn tôi nhiều, tuy bề bộn với nghề nghiệp chuyên môn và đời sống
gia đình, nhưng thường xuyên phát hành đều đặn một nguyệt san biếu không
lấy tên là Phật học, thực hiện một Trang nhà trên Mạng nhện Toàn cầu,
www.phathoc.org, đăng nhiều tài liệu tham khảo có giá trị về Phật
giáo, ấn hành nhiều sách Pháp luận và phát hành nhiều băng giảng pháp, tổ
chức mời Thầy về nói Pháp và giảng Thiền ở địa phương những mùa lễ lớn,
đóng góp công lực và tài lực vào Phật sự khắp nơi, v.v... Đối với tôi,
không những đó là tấm gương sáng chói mà còn là một công trình lợi ích khó
thực hiện gấp trăm ngàn lần học đọc thông hiểu và viết ra những bài luận
bàn về Trung quán luận. Lại được quý vị trong nhóm yêu cầu và khuyến khích
tôi mới mạnh dạn ghi lại và nói lên những kinh nghiệm học Phật trong thời
gian qua.
Suốt thời gian viết về tánh
Không, tôi chưa bao giờ rời khỏi quyển Triết học về tánh Không của Thầy
Tuệ Sỹ. Trong giai đoạn gần hoàn thành tập sách này, nhờ nhiều thiện duyên
tôi được Thầy Tuệ Sỹ tùy hỷ chỉ giáo tận tường và gửi cho tài liệu về Pháp
giới Hoa Nghiêm qua điện thư. Cuối cùng, Thầy có nhã ý viết lời Tựa khi
sách được hoàn tất. Kính xin Thầy nhận ở đây tấm lòng ngưỡng mộ và biết ơn
sâu xa của tôi.
Tôi chân thành cảm tạ và tỏ
lòng biết ơn quý vị xa gần đã bỏ thời giờ đọc và phê phán những bài tôi
viết bấy lâu được đăng trong Phật học. Về trang bìa, tôi rất cảm kích được
họa sĩ Bửu Chỉ giúp trình bày về một tác phẩm diễn tả đầy đủ ý nghĩa nội
dung tập sách. Riêng đối với nhóm Phật học ở Louisville, để khỏi phụ lòng
thương yêu và tin tưởng của quý vị, tôi nguyện tinh tấn tu học và tiếp tục
viết ra những kinh nghiệm thấy biết bản thân hầu đóng góp phần nào vào
công việc hoằng dương Phật pháp mà quý vị đang chí tâm thực hiện.
Hồng
Dương Nguyễn Văn Hai
Tháng Hai, 2001
-- o0o --
Mục Lục
Phần 1:
1
|
2 | 3 | 4 | 5
| 6
| 7
Phần 2: 1
| 2
| 3
| 4
| 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10
Phần 3: 1 | 2
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn
Đạo hữu Phúc Trungđã gởi tặng tài liệu này.
Vi tính: Hải Hạnh
Trình bày:
Nhị Tường
Cập nhật : 11-05-2002