Hạnh
tri ân
Lệ thường, vào mỗi buổi
sáng trước khi đi khất thực, Ðức Xá-Lợi-Phất đều rảo
quanh một vòng khắp Trúc Lâm tịnh xá. Nơi nào mà chỗ ở,
chỗ nghỉ, chỗ ăn, nhà vệ sinh, nhà tắm v.v... chưa được
sạch sẽ, chưa được cất đặt gọn gàng; Ngài bỏ công ra
để dọn dẹp, quét tước. Ngài còn để ý những rác rưởi
chỗ này, chỗ kia; để ý những y áo phơi phóng chưa được
ngay ngắn, để ý cả những dấu tích nấu nướng bừa bãi
trên những đám cỏ xanh...
Xong công việc, bao giờ
cũng đã khá trưa Ngài mới ôm bát rời tịnh xá. Ðôi khi với
mồ hôi còn nhễ nhại, Ngài vẫn chậm rãi, tự tại từng bước.
Tuy thế, Ngài thường đi bát không lâu, chỉ đứng năm, bảy
nhà là đã đầy vật thực. Chỉ mấy hôm mà cả kinh thành Vương-Xá,
không ai là không biết đến Ngài. Họ kỉnh mộ và tôn sùng
vị Ðại Ðệ Tử ấy.
Theo thông lệ, sau khi nhận
vật thực, bao giờ Ngài cũng đọc một bài kinh phúc chúc ngắn
gọn, nói vài ý Pháp gieo duyên rồi bước chân sang nhà khác.
Ngài để tâm bình đẳng, không kể người giàu kẻ nghèo,
sang hay hèn, nam hay nữ. Ai cúng dường vật thực đến Ngài cũng
cảm thấy tâm mình hoan hỷ, vui tươi trọn ngày.
Ðức Xá-Lợi-Phất đi bát
sau mà thường về sớm. Bổn phận đầu tiên của Ngài là
tìm dâng một ít vật thực lên Ðức Thế Tôn, Ðại Ðức
Assaji - tức là vị thầy dẫn dắt Ngài vào Ðạo Bất Tử,
sau đó Ngài mới tìm đến một cội cây để dùng ngọ, rồi
đi kinh hành.
Sau buổi trưa, Ðức Phật
thường có một thời Pháp ngắn gọn. Ðôi khi Ðức Phật
truyền Tam Quy, Ngũ Giới cho người mới nhập đạo. Thỉnh
thoảng Ngài cũng ban lễ xuất gia nếu được thỉnh nguyện.
Riêng Chư Tăng thì dịp này có vị đến xin Ðức Thế Tôn đề
mục phù hợp tâm tánh mình. Có vị Ðức Phật lại nói thêm
Pháp khi thấy tinh thần họ đạt đến trình độ có thể bước
lên thành quả cao hơn v.v... Những lúc như vậy, bao giờ Ðức
Xá-Lợi-Phất cũng im lặng hầu sau lưng Ðức Phật, Ngài
không bỏ qua bất cứ một chi tiết nào về tất cả cách thức
giáo giới, về trường hợp của tất cả tỳ-khưu.
Buổi chiều, nếu Ðức
Phật thuyết pháp đến cho hàng cư sĩ tại gia thì Ðức Xá-Lợi-Phất
cũng phải có phận sự lắng nghe tất cả, ghi nhận tất cả.
Một là để học hỏi phương pháp giáo huấn của Ðức Phật,
hai là nắm bắt những chi tiết cao và thấp, rộng và sâu của
Giáo Pháp. Ðôi khi Ðức Phật bảo Ngài thuyết lại cho hội
chúng đông đúc cư sĩ tại gia nghe, và lần nào Ngài cũng trọn
hảo chức năng của mình.
Hôm kia, thì giờ rảnh rỗi,
Ngài liền tìm cội cây khuất vắng, tự nghĩ:
"- Ta và hiền đệ Mục-Kiền-Liên
xuất gia chưa được bao lâu mà đã được Ðức Tôn Sư tấn
phong Ðại Ðệ Tử. Ðiều ấy dẫu là đặt đúng ngôi vị với
lời đại nguyện xưa, mọi người đa phần hoan hỷ nhưng làm
sao tránh khỏi những dị nghị này kia trong tâm những kẻ
phàm phu? Nếu họ ganh ghét, đố kỵ thì ta không thể cảm
hóa họ được. Vậy việc trước nhất phải làm, ngoài việc
xuất nhập dễ dàng chín bậc thiền, ta phải còn làm cho sung
mãn Tứ Vô Lượng Tâm, phát triển toàn hảo ba mươi Ba-La-Mật.
Mong nhờ uy lực Ba-La-Mật, bóng mát Tứ Vô Lượng Tâm mà tất
cả các vị tỳ-khưu còn phàm phu sẽ được an lành, dễ nghe
lời dạy bảo."
Nghĩ thế xong là Ðức
Xá-Lợi-Phất nhập thiền. Sau khi xuất nhập thuần thục
chín bậc thiền Ngài nhập Ðại Bi Ðịnh, làm cho vững chắc
Ðại Bi Ðịnh, làm cho Tâm Ðại Bi tẩm mát no đầy cả châu
thân cho đến tận lỗ chân lông - rồi Ðại Bi Tâm tràn đầy
mát mẻ cả không gian xung quanh... Ðến đây Ðức Xá-Lợi-Phất
chợt hiểu tại làm sao mà Ðức Thế Tôn cảm hóa được Dìghanakha
nơi động Heo ngày nọ. Quả thật, Ðại Bi Tâm nếu được
an trú sung mãn thì nó dễ dàng chuyển dịch Từ, Hỷ và Xả.
Tướng của nó là bốn mà tánh chỉ một. Tánh là trú tâm
mà tướng là hướng đến đại dụng. Pháp nào cũng từ nguyên
tắc này mà ra cả! Ðức Xá-Lợi-Phất không chỉ tu tập từng
ấy. Thỉnh thoảng Ngài trú "không định", càng ngày
càng kiên cố; và đây thường là chỗ cư ngụ, chỗ nghỉ
ngơi, an dưỡng của Ngài. Trong sinh hoạt thường nhật, Ngài
dùng Tuệ quán từng giây khắc một, cho nên những thọ, tưởng,
ý, thức, trí dầu có nhỏ nhiệm, vi tế cách mấy cũng hiển
hiện trước Ngài một cách rõ ràng và trong sáng. Như một tấm
gương trong suốt, không một mảy bụi; những ảo giác, ảo cảnh,
ảo tưởng vừa chỉ mới lóe hiện đã được nhìn thấu suốt,
toàn vẹn; không gì đánh lừa được Ngài...
Buổi tối, vào canh một,
Ðức Phật thường để dành thì giờ cho vị tỳ-khưu nào tự
do thỉnh cầu rọi sáng những mối nghi hoặc của mình, những
điểm khó hiểu, phức tạp trong Giáo Pháp. Ðôi khi Ðức Thế
Tôn thuyết pháp những đề tài do Ngài tự chọn. Nếu sau đó
có những nhóm tỳ-khưu từ phương xa đến thì Ðức Phật bảo
Ðức Xá-Lợi-Phất thuyết lại. Và lúc nào Ngài cũng được
Ðức Phật và đại chúng tán thán, ca ngợi.
Khoảng giữa canh hai, khi
Ðức Thế Tôn giáo giới cho Chư Thiên và Phạm Thiên, cũng là
lúc Ðức Xá-Lợi-Phất tìm chỗ vắng lặng của mình để
thiền tọa hoặc đi kinh hành. Trước lúc đi nghỉ - nghiêng lưng
một lát thôi - Ðức Xá-Lợi-Phất luôn luôn nhớ đến chỗ
của Ðại Ðức Assaji trong tịnh xá hay ở phương nào để
quay đầu về hướng đó. Cho chí sau này, trên đường hoằng
pháp, theo chân Ðức Bổn Sư; đêm nghỉ tại thị trấn, làng
mạc, rừng sâu, nghĩa địa..., chỗ có mái che hay không có
mái che, Ðức Xá-Lợi-Phất vẫn giữ thông lệ như vậy, quay
đầu về phương hướng mà vị thầy đầu tiên của mình
đang cư ngụ.
Có một số tỳ-khưu còn
phàm phu, xấu bụng, xấu miệng, biết chuyện ấy, họ dè bỉu,
bàn tán như sau:
- Cái ông Xá-Lợi-Phất
đã là Ðại Ðệ Tử của Ðức Phật, là Bậc Tướng Quân
Chánh Pháp, là Bậc Thượng Thủ của Giáo Hội... mà đêm đêm
vẫn lễ bái các phương trời! Thế ra, đã là một bậc
A-La-Hán rồi mà vẫn chưa bỏ được những tà kiến ăn sâu,
mọc rễ về tập quán tôn sùng những vị Phạm Thiên của
ngoại đạo ư?
Ðức Phật biết rõ trí
tuệ và đức hạnh của đệ tử mình, nên vào dịp thuận tiện
nhất, Ngài tuyên bố minh bạch trước Tăng chúng rằng:
- Xá-Lợi-Phất, Trưởng
tử của Như Lai không bao giờ lễ bái các phương! Này các thầy
tỳ-khưu! Hãy tôn kính và đừng mạo phạm đến việc làm của
những bậc vô nhiễm, không còn bụi cát. Xá-Lợi-Phất, đệ
tử của Như Lai chỉ lễ bái đến ai mà nhờ đó, ông ta tìm
thấy Pháp Bảo Bất Tử. Người mà ông ta đảnh lễ chính
là Ðại Ðức Assaji trong nhóm năm ông Kiều Trần Như. Xá-Lợi-Phất
rất biết ơn thầy, rất biết ơn người dẫn đạo đầu tiên
cho mình.
Này các thầy tỳ-khưu!
Hạnh tri ân là một phẩm chất tốt đẹp, cao quí - các thầy
nên lấy Xá-Lợi-Phất mà soi gương!
Thường những lúc như vậy
là cơ hội tốt để Ðức Phật dạy dỗ Chư Tăng, giáo giới
Chư Tăng. Ðức Phật thuyết một số câu chuyện của đời
Ngài trong nhiều kiếp quá khứ liên hệ với chủ đề. Ðức
Phật kể về một kiếp nọ, chính Ngài mang ân một người,
chỉ vì người đó cho Ngài một cắc bạc thôi, mà Ngài đã
làm nên sự nghiệp. Một kiếp khác, chỉ vì muốn nghe một
câu kệ chỉ đường về thiên giới mà Ngài sẵn sàng hy sinh
mạng sống mình. Rồi Ðức Phật tóm tắt như sau:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Chỉ một cắc bạc mà Như Lai đã nhớ ơn trọn đời! Chỉ
nghe một câu kệ mà Như Lai đã đem đổi mạng sống. Vậy thì
sao chúng ta không biết ơn, không lễ bái ông thầy, vì nhờ
ông ấy, ta có được cơ hội đi vào căn nhà Pháp Bảo? ân
đức của người cho ta Pháp mầu giải thoát tối thượng
hơn tất cả mọi loại ân đức trên đời này.
* * *
Thuở ấy có một người
Bà la môn già thường chăm lo những công việc lặt vặt tại
một tịnh xá trong thành Xá-Vệ (Sàvatthi), Chư Tăng có bố
thí vật thực cho ông để sống, nhưng khi xin Chư Tăng để
được xuất gia thì không ai chấp nhận. Ðức Phật quan sát
căn duyên biết ông lão Bà la môn kia có khả năng đắc được
quả vị cao nhất, bèn hỏi Chư Tăng xem ai có duyên độ được
ông ta. Chư Tăng không ai thấy mình có duyên cả. Bỗng nhiên
Ðức Xá-Lợi-Phất đứng lên đảnh lễ Phật rồi tâu:
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Có một lần đệ tử đi khất thực trong Vương-Xá thành, người
Bà la môn nghèo khổ này đã dâng một vá cơm đầy mà ông ta
vừa xin được để sống. Khi dâng cúng như vậy là ông ta đã
dâng hết phần ăn của mình. Ðấy là sự cúng dường với tâm
cao thượng. Ðệ tử thấy rằng, ông lão Bà la môn có duyên
với đệ tử, xin Ðức Thế Tôn cho phép đệ tử thực hành
trách nhiệm và bổn phận của mình.
Ðức Thế Tôn im lặng
nhận lời. Ðức Xá-Lợi-Phất thâu nhận lão Bà la môn và
làm lễ xuất gia cho ông ta. Từ đó, Ngài hết lòng chăm lo
cho người học trò; cặn kẽ chỉ bày từng học giới, từng
pháp học một; hướng dẫn cách đi đứng, thu thúc; hướng dẫn
đề mục thiền định và tuệ quán không kể là giờ khắc
nào, ngày hay đêm. Khi người đệ tử già này cần sự giúp
đỡ gì, tinh thần hay vật chất Ngài đều sẵn lòng hỗ trợ,
chỉ bày với tâm hoan hỷ và đầy tràn bi mẫn.
Việc làm tốt đẹp, đáng
trân trọng ấy của Ðức Xá-Lợi-Phất vẫn bị chúng phàm
phu tìm cách nói móc:
- Cũng phải thôi! Ðã lỡ
chỉ dạy cho học trò của mình những pháp cao siêu thì ông
thầy cũng phải tận tâm mẫu mực biểu lộ những tâm đức
cao thượng hơn mới xứng đáng chứ!
Ðể xóa tan những ác kiến
ấy, Ðức Phật lại phải giải thích:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Ðừng hiểu lầm Xá-Lợi-Phất! Ðừng lấy tâm địa ô nhiễm
của mình mà đánh giá trình độ tâm, trình độ trí "con
của Như Lai"! Sở dĩ Xá-Lợi-Phất lao tâm khổ trí dạy
bảo những Pháp hành cao thượng cho học trò là vì ông ta muốn
đền ơn một cách cao thượng cho người, mà trước đây, đã
có một hành động rất cao thượng đối với mình!
Rồi nhân tiện đó, Ðức
Phật kể chuyện về quá khứ, tiền thân của Ngài Xá-Lợi-Phất,
làm một "con voi chúa biết đền ơn trả nghĩa" như
sau:
"- Thuở xa xưa kia,
dưới chân Hy mã lạp sơn, trong khu rừng trù mật có một con
voi chúa cai quản bầy voi mấy trăm con. Voi chúa mẫn tuệ,
thông minh, tháo vác... đã chỉ huy, thống lĩnh đàn voi như một
vương quốc của hòa bình và an lạc. Khi thấy mình đã già,
voi chúa tự nghĩ: "cái già và cái chết sắp đến rồi,
ta hãy bàn giao mọi công việc lại cho các voi trẻ thanh xuân
thay ta đôn đốc, bảo ban hướng dẫn đàn. Tuổi của ta
không còn thích hợp với chỗ bầy đàn, ồn ào, đông đúc nữa.
Nay phải là thời ta tìm nơi khuất tịch, vắng vẻ, độc cư
nhàn tĩnh để di dưỡng tâm hồn". Nghĩ thế xong, sau khi
bàn giao công việc lại cho các voi trẻ, voi chúa lên đường
vào rừng sâu tìm chỗ ẩn cư. Rủi thay trên đường, voi chúa
đạp nhằm dăm gỗ nhọn hoắt đâm sâu vào chân, nhức buốt
tận xương. Mấy ngày nằm nguyên ở đấy, chịu đựng cơn
đau, cơn đói, cơn khát - chứ voi không thể nhấc chân được
nửa bước.
Dưới chân núi có ngôi
làng thợ rừng, họ sinh sống bằng nghề lấy gỗ. Hôm kia, một
toán đi ngang chỗ voi chúa nằm. Voi chúa đưa mắt nhìn họ
thiết tha, cầu khẩn. Người lớn tuổi nhất đọc được ý
nghĩ của voi, bước lại, thấy vết thương. Họ cùng nhau phụ
lực kéo dăm gỗ nhọn ra, sau đó tìm dược thảo quanh vùng,
nhai nhỏ, đắp vào vết thương và băng bó lại cho voi. Họ
còn lấy tất cả cơm và nước cọng lại của cả đoàn người,
bỏ vào miệng cho voi ăn. Suốt bảy ngày như vậy, họ cử
người gánh vật thực từ làng lên cho voi ăn để mau hồi sức.
Voi lành mạnh, khỏe khoắn, đứng dậy đi được, tự nghĩ:
"Bây giờ là không phải thời để ta ẩn cư nữa, đây
là thời mà ta phải biết đền ơn trả nghĩa cho những con
người nhân hậu tốt bụng này". Thế là voi chúa bắt đầu
ra sức kéo gỗ. Năm trăm người thợ rừng sung sướng thấy
công sức làm việc mấy tháng của họ chỉ bằng voi làm
trong vòng mấy ngày. Ðến bữa ăn, họ chung phần năm trăm gói
cơm lại thành một đống, voi chúa lấy vòi cuốn ăn hết chẳng
khách sáo gì.
Làng thợ rừng ấy nhờ
voi chúa mà mỗi lúc một giàu lên. Hôm kia, khi làm việc, voi
đổ mồ hôi, mệt lả . Voi chúa nghĩ: "Bình thường với
khúc gỗ to bằng mười nó, ta vẫn kéo phăng phăng; nay ta đã
không kéo nổi một khúc gỗ nhỏ, ta già yếu rồi, đã cạn
kiệt sức lực rồi." Nghĩ thế, voi chúa bỏ đi, ba ngày
sau, mang lại một voi thanh niên, thuần chủng, trắng như tuyết
đến, cho ra mắt đám thợ rừng, gật đầu như chào tất cả
mọi người rồi lầm lũi, chậm rãi hướng vào rừng sâu.
Voi chúa đã để lại
voi con, thay nó, từ đây đáp đền ân nghĩa. Sức của voi con
làm việc gấp chục lần voi cha, làm cho cả làng thợ rừng
được hạnh phúc, giàu có... Voi con được mọi người kính
mến, quý trọng, thương yêu. Là hộ pháp, là tình thương, là
thần tài, là thần hoan hỷ cho cả ngôi làng."
Kể chuyện xong, Ðức Phật
dạy:
- Biết ơn người khác,
trả ơn người khác gấp trăm, gấp ngàn lần cái mà mình thọ
ơn là việc làm quen thuộc của Xá-Lợi-Phất trong rất nhiều
đời kiếp. Xá-Lợi-Phất đã cùng với Như Lai trong nhiều kiếp
sống luôn sát cánh bên nhau, nhân duyên luôn gặp gỡ nhau, hỗ
trợ nhau, nhắc nhở nhau trên con đường mưu cầu hạnh phúc
cho phần đông, vừa bồi bổ, tấn tu Ba-La-Mật cho chính
mình.
Này các thầy tỳ-khưu!
Nghĩ sai lầm về Xá-Lợi-Phất, đã sai lầm mà còn ác tri,
ác kiến với Xá-Lợi-Phất, là một trọng tội, nghiệp báo
rất nặng, các ngươi nên nhớ lấy!
* * *
Lão Bà la môn, học trò
của Ðức Xá-Lợi-Phất do sự chỉ bày chí tình, chí thiết,
cặn kẽ, tận tâm ấy đã không phụ lòng thầy, một thời
gian sau, quả nhiên, ông ta đắc được đạo quả A-La-Hán. Hạnh
tri ân của Ðức Xá-Lợi-Phất bắt dầu tỏa sáng dịu dàng
trong Giáo Hội của Ðức Tôn Sư.
Ðôi
bạn
Ðức Xá-Lợi-Phất và
Ðại Mục-Kiền-Liên đã có tình bạn thâm thiết tự thuở
ấu thơ, lớn khôn, trưởng thành, lang thang tìm Ðạo cho đến
khi tao ngộ Giáo Pháp của Ðức Bổn Sư. Lúc này cả hai đều
là Ðại Ðệ Tử, là hai cánh tay trợ thủ của Ðức Phật
thì tình bạn xưa càng thiêng liêng hơn nữa.
Từ khi đắc quả, họ
thường gặp gỡ nhau để trao đổi về Giáo Pháp. Họ đều
thấy rằng cái gia tài mà họ được thọ hưởng quá bao la,
mênh mông, bát ngát. Dùng trí tuệ mà đi vào kho tàng ấy thật
không có chỗ tận cùng, do vậy, những lần đàm đạo giúp họ
soi rọi cho nhau thấy thêm những vi tế khác, ngõ ngách khác,
bề rộng và bề sâu khác.
Hôm nọ, Ðại Mục-Kiền-Liên
từ xa đến tìm Ðức Xá-Lợi-Phất để bàn về giáo lý Vô
Ngã.
- Hiền huynh! Có thể lập
ngôn: "Vô Ngã là Niết Bàn chăng?"
- Không thể lập!
- Có thể lập ngôn ngược
lại: "Niết Bàn là Vô ngã được chăng?"
- Không thể lập!
Ðại Mục-Kiền-Liên gật
đầu rồi nói:
- Không phải là ngoại
đạo, mà chính là những giảng sư, luận sư, pháp sư trong chính
Giáo Hội của Ðức Tôn Sư, họ là những kẻ chưa chứng quả
cao nhất, đã thuyết giảng giữa thành phố và làng mạc những
luận điểm như vậy, kiến giải như vậy. Một nhóm tỳ-khưu
đâu từ Vesalì đến, đang thảo luận với nhau ở đằng kia
cũng ồn ào, tranh cãi về điều ấy.
Vậy hiền huynh có thể
nào, bởi trí tuệ phân tích của mình, cho đệ thấy từ gốc
đến ngọn của vấn đề, cuối cùng, cách lập ngôn nào tương
đối chính xác nhất để khỏi kẹt vào có, không, vừa có vừa
không, không có không không?
Ðức Xá-Lợi-Phất và
Ðại Mục-Kiền-Liên lúc ấy đang trú tại Kapotakandarà, ở
đây có một khu rừng lớn, những ngọn đồi xanh tươi đẹp
mắt và những đồng ruộng phì nhiêu. Sau những câu hỏi, họ
dẫn nhau ra một ngọn đồi, buổi chiều, khí hậu mát mẻ,
khung cảnh yên lặng.
Ðức Xá-Lợi-Phất nói:
- Câu hỏi của hiền đệ
thú vị lắm! Nhưng bây giờ hiền đệ một nơi, ngu huynh một
nơi - Ngài đưa mắt chỉ một ngọn đồi rất xa - chúng ta
hãy tọa thiền, nghỉ ngơi một lát đã nhé. Chiều tối, khi
vào làng, chúng ta hãy tiếp tục trao đổi.
Ðại Mục-Kiền-Liên cười
nhẹ:
- Ðúng vậy! Nên để lúc
vào làng, có đủ các nhóm tỳ-khưu, đ? sẽ hỏi lại!
Khi đã an vị trên chỗ
ngồi, chuẩn bị tọa thiền, Ðức Xá-Lợi-Phất tự nghĩ:
"- Trí tuệ của Ðại
Mục-Kiền-Liên rất thâm sâu! Ðiều gì ta thấy thì Ðại Mục-Kiền-Liên
cũng thấy. Với câu hỏi vừa rồi, chẳng phải là Mục-Kiền-Liên
không hiểu mà chắc là có lý do của nó. Ai cũng tưởng Ðại
Mục-Kiền-Liên chỉ sở đắc Ðệ Nhất Thần Thông không
thôi là lầm to đấy. Trí tuệ của Ðại Mục-Kiền-Liên cũng
bất khả tư nghì."
Ðức Xá-Lợi-Phất với
tâm trí thanh thoát, một lát, khí an tĩnh tỏa ra, Ngài nhập
"không định", là nơi nghỉ ngơi, an cư của bậc Thánh.
Thời gian trôi qua, buổi
chiều chầm chậm trôi qua, Ðức Xá-Lợi-Phất đi sâu vào đại
định, không còn biết gì ngoại cảnh bên ngoài. Tình cờ, một
hung thần đi ngang, nó vốn có ác cảm với Sa môn nên đã
dùng tất cả thần lực đánh xuống đầu Ðức Xá-Lợi-Phất,
mạnh như sấm sét, rồi bỏ đi.
Tuy nhiên, Ðức Xá-Lợi-Phất
không hay biết, Ngài vẫn an nhiên tự tại, bất động như địa
đại trong thế giới tĩnh cư của mình.
Lúc ấy, Ðại Mục-Kiền-Liên
ở một ngọn đồi xa, Ngài không nhập định như Ðức Xá-Lợi-Phất
mà Ngài đang dùng "thiên nhãn" để nhìn xem nhiều
ngàn thế giới... Khi vừa đem "thiên nhãn" về, Ðại
Mục-Kiền-Liên trông thấy hung thần đánh xuống đầu Ðức
Xá-Lợi-Phất rồi bay đi. Cũng dùng thần thông, Ngài có mặt
bên cạnh Ðức Xá-Lợi-Phất ngay tức khắc. Ðức Xá-Lợi-Phất
lúc ấy cũng vừa xả thiền.
- Này hiền huynh! hiền
huynh được an lạc chứ? Hiền huynh có cảm thấy có gì bất
ổn không?
Ðức Xá-Lợi-Phất đưa
tay sờ đầu mình:
- Hiền đệ ạ! Ngu huynh
vẫn an lạc như bình thường. Nhưng không biết có cái gì,
ở đây - Ngài xoa xoa chỗ trên đỉnh đầu - nó ê ẩm một
ít thôi!
Ðại Mục-Kiền-Liên bỗng
chấp tay, thốt lên:
- Ôi, thật là kỳ diệu
thay! thật là hy hữu! thật là một chuyện lạ lùng chưa từng
thấy! Này hiền huynh! Sức mạnh thể chất và năng lực tinh
thần của hiền huynh thật là vĩ đại và cao siêu, ngàn lần
vô địch trên thế gian này!
Này hiền huynh quí trọng!
Vừa rồi có một hung thần, chính thị một Aùc Dạ-Xoa,
không biết lý do sao, đã đánh xuống đầu hiền huynh một cú
đánh mạnh tợ sấm sét, mạnh tợ thiên lôi giáng! Hiền
huynh có biết chăng, với sức mạnh, trọng lượng của cú đánh
ấy thì một con voi to bảy, tám do-tuần cũng phải bị tan xác,
một ngọn đồi cao, một tảng đá lớn tức khắc sẽ bị xẻ
đôi!
Kỳ lạ thế đấy! Với
sức mạnh của cú đánh như vậy, mà hiền huynh chỉ nói:
"không sao, này hiền đệ, huynh vẫn an lạc như thường,
nhưng không biết có gì ở đây - trên đỉnh đầu - nó ê ẩm
một tí thôi!"
Ðức Xá-Lợi-Phất cũng
chấp tay, thốt lên:
- Ôi! thật kỳ diệu
thay! thật là hy hữu! thật là một chuyện lạ lùng chưa từng
thấy! Này hiền đệ! Năng lực tinh thần, năng lực thần thông
của hiền đệ mới kỳ vĩ và siêu tuyệt làm sao! Làm thế
nào với khoảng cách giữa hai ngọn đồi xa như thế mà hiền
đệ có thể thấy tức khắc một Aùc Dạ-Xoa đến và bay
đi? Rõ ràng là đôi mắt của hiền đệ quả là siêu tốc,
chẳng lấy gì so sánh nổi!
Cả hai vị Thánh tán
thán, ca ngợi nhau mà ai cũng khiêm tốn, trung thực tận đáy
lòng.
* * *
Buổi chiều, khi vào
trong làng, bên nhóm những vị tỳ-khưu, Ðại Ðức Mục-Kiền-Liên
kể lại câu chuyện về hung thần và khả năng đại định kỳ
lạ của Ðức Xá-Lợi-Phất cho mọi người nghe; rồi Ðại Mục-Kiền-Liên
hỏi Ngài Xá-Lợi-Phất:
- Bạch Ðại Ðức! Chỗ
bị đánh trên đầu của Ðại Ðức giờ còn ê ẩm chăng?
Biết là người hiền đệ
của mình muốn trở lại đề tài Vô Ngã, nên Ngài trả lời:
- Không sao! ấy chỉ là
một cảm thọ thôi. Thọ ấy có sinh thì thọ ấy có diệt.
Sinh và diệt là bản chất, là tính chất của các cảm thọ
- cũng như của tưởng, của hành, của thức! Chẳng có cái
ngã nào ở đấy để gánh chịu cả. Hiền đệ sao không nói
về sự vận hành vô ngã của ngũ uẩn cho huynh đệ ở đây
nghe?
Ðại Mục-Kiền-Liên tự
nghĩ:
"- Ðây là phải thời
để hiền huynh ta giáo giới cho một số tỳ-khưu tà kiến,
ngu si này."
Bèn tự lấy tọa cụ đặt
trên một chỗ cao ráo, bằng phẳng, sạch sẽ; cung thỉnh Ðại
Ðức Xá-Lợi-Phất ngồi lên đấy, rồi nói:
- Xin Ðại Ðức bi mẫn
chỉ giáo! Ðại Ðức vừa nói đến sự vận hành vô ngã của
ngũ uẩn, vậy xin Ðại Ðức giảng rộng thêm. Ðã từ lâu
có rất nhiều giáo phái quan niệm có một "cái ta",
có một Atman, một linh hồn trường cửu. Linh hồn ấy gây
nhân, linh hồn ấy gặt quả. Quan niệm ấy có đúng không? Chủ
thuyết ấy có sai lầm chăng? Trong Giáo Hội của Ðức Tôn Sư,
có người vẫn chưa thông hiểu rốt ráo về ngũ uẩn, về cái
ta, về Atman! Do đó, những khởi nghi tồn tại ở đâu đó,
như những cái rác vô hình vướng trong mắt; nên những chấp
kiến, những dị kiến mơ hồ, xao xác đã từng có mặt ở
đây, giữa chư huynh đệ này, rằng là "Niết Bàn là Vô
Ngã", rằng là "Vô Ngã là Niết Bàn"! Vậy cúi
xin Ðại Ðức lấy Ðại Trí Tuệ của mình soi rọi những chỗ
tối tăm để cho đại chúng thảy đều lợi lạc.
Ðức Xá-Lợi-Phất tự
nghĩ:
"- Hiền đệ ta khổ
tâm vậy thay! Hiền đệ ta đã cung kỉnh ta như vậy cũng vì
lợi ích cho phần đông. Vậy ta cũng nên giải nghi cho họ -
và ta sẽ tạo duyên - thành một buổi thuyết pháp vấn đáp
thú vị".
Bèn bước xuống pháp
tòa, tự tay bỏ thêm bên cạnh một tọa cụ nữa, thỉnh Ðại
Ðức Mục-Kiền-Liên lên ngồi. Khi cả hai cùng đã an tọa,
Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất hướng về đại chúng đang đoanh vây,
nói rằng:
- Chúng tôi, cả hai cùng
thuyết, chư huynh đệ hãy lắng nghe.
Nhóm tỳ-khưu từ Vesalì
và rất nhiều nhóm tỳ-khưu khác nữa, nhân duyên gặp hai vị
Tôn giả ở đây, quả là hy hữu. Từ lâu, họ đã nức tiếng
nghe danh hai vị Ðại Ðệ Tử của Ðức Phật: một vị Ðệ
Nhất Ðại Trí Tuệ, một vị Ðệ Nhất Ðại Thần Thông!
Bây giờ đang cùng có mặt ở đây, thân tướng trang nghiêm,
giọng nói với những âm thanh tuyệt hảo. Thật có phúc cho họ
lắm. Kẻ âm thầm chiêm ngưỡng. Kẻ tán thán ca ngợi thì
thào. Kẻ chấp tay kỉnh mộ. Gặp hai vị Ðại Ðệ Tử thì
chẳng khác gì gặp Ðức Phật vậy. Cả hội chúng bắt đầu
im lặng, một con muỗi bay vo ve cũng nghe được âm thanh.
Giọng Ðức Xá-Lợi-Phất
gióng lên như tiếng chuông ngân:
- Ðại Mục-Kiền-Liên
cho bần đạo được hỏi: tất cả các Sắc thô hay tế, thù
thắng hay hạ liệt, trong hay ngoài, gần hay xa, quá khứ, hiện
tại hay vị lai - tất cả các Sắc ấy, Ðức Tôn Sư đã thuyết
rồi, nó là hữu ngã hay vô ngã?
- Bạch, là vô ngã.
Ðại đức Xá-Lợi-Phất
đưa một cánh tay lên:
- Ðây có phải là sắc
không?
- Thưa, phải.
Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất
đưa một que củi lên:
- Ðây có được gọi là
sắc không? là vô ngã không?
- Bạch, cũng là sắc, cũng
là vô ngã!
Ðức Xá-Lợi-Phất chăm
chú nhìn que củi, nói rất lớn mà như nói cho chính mình
nghe:
- Lạ nhỉ! que củi này
là vô ngã, vô ngã là tính chất của que củi này; tính chất
của que củi này là vô ngã. Nếu ai đó bảo rằng Vô Ngã là
Niết Bàn thì té ra người ta cần cầu tu tập để đạt cho
được tính chất của que củi này!
Cả đại chúng lạnh ngắt,
ngỡ ngàng. Họ chăm chú nghe Bậc Tướng Quân Chánh Pháp nói,
chăm chú nhìn que củi! Rồi cả hội chúng nổ ra một trận cười!
Một trận cười ứa nước mắt. Một trận cười hỷ lạc!
Một trận cười rõ ràng là họ đã thấu suốt vấn đề. Té
ra điều mà họ sôi nổi tranh luận chưa biết ai đúng, ai sai
chỉ là que củi, trò cười trên tay Bậc Ðại Trí Tuệ!
- Lành thay! Chúng đệ tử
đã hiểu.
Ðể cho hội chúng xôn
xao lắng xuống, Ðức Xá-Lợi-Phất tiếp tục thuyết giảng:
- Này chư huynh đệ! Hãy
nhìn lại tấm thân một trượng này; cái tấm thân có bì da
đựng thịt, đựng xương, biết mặc áo, ăn cơm, biết đi đứng,
nói năng - nó là cái tiến trình vận hành, tiếp nối, liên tục,
sinh diệt từng giây khắc của ngũ uẩn ấy thôi. Một cảm
thọ khởi lên, ghi nhận cảm thọ là tưởng, tham sân si tác
động là hành, nhận biết toàn bộ tiến trình ấy là thức.
Thức nhận biết, kinh nghiệm toàn bộ tiến trình ấy... rồi
sanh khởi ngũ uẩn mới, thức tiếp xúc với sắc mới tạo
ra thọ mới, tưởng mới, hành mới rồi thức mới... cứ như
thế cho đến vô tận tử sanh, vô tận trầm luân không bao giờ
ra khỏi. Là thường nhân, là phàm phu, vì không có tu tập,
không có tuệ giác, vì không thấy, không biết nên cứ tưởng
là có một Atman, một linh hồn trường cửu. Vậy hãy như chân
như thật thấy rằng: ngũ uẩn ấy là không, ngũ uẩn ấy là
vô ngã!
- Lành thay! Chúng đệ tử
đã hiểu.
Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất
quay qua Ðại Mục-Kiền-Liên:
- Bạch Ðại Ðức : ngũ
uẩn là vô ngã, vậy vô ngã của ngũ uẩn có phải là Niết
Bàn không?
- Thưa, không phải!
Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất
quay lại nhìn đại chúng:
- Nầy chư huynh đệ! Vậy
ở đây "Vô Ngã là Niết bàn" rõ ràng là tà kiến,
là kiến hoang vu, kiến rừng rậm, kiến kiết phược, kiến hý
luận, kiến điên đảo,...! Vô ngã là sinh diệt, không có tự
tính, không có thực thể, vậy nếu chấp Vô Ngã là Niết
Bàn thì Niết Bàn ấy cũng sinh diệt, không có tự tính,
không có thực thể hay sao?
Nghỉ hơi một lát, Tôn
giả Xá-Lợi-Phất lại hỏi Ðại Mục-Kiền-Liên:
- Bạch Ðại Ðức! Các
pháp hữu vi có vô ngã không?
- Bạch, các pháp hữu vi
cấu tạo, do duyên sinh, kết hợp - lớn như vũ trụ trăng
sao, nhỏ như một mảnh lân hư trần - tất cả chúng đều là
vô ngã.
- Bạch Ðại Ðức! Còn
các tâm niệm của chúng ta thì sao?
- Bạch, những tâm niệm
tạo tác lăng xăng, tạo tác thiên đường, địa ngục, khởi
nghĩ chuyện này sinh chuyện kia, chính là hữu vi, điều mà Ðức
Tôn Sư đặt nặng trọng tâm, nó chính là hành, hữu vi ấy
là hành. Hành chính là tạo tác ấy.
- Nó có vô ngã không?
- Thưa, nó chính là vô
ngã!
Ðể cho hội chúng suy
nghĩ một lát, Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi tiếp:
- Ðại Ðức đã cho biết
về tất cả pháp hữu vi, bên trong và bên ngoài - tất cả
chúng đều là vô ngã. Vậy còn những pháp vô vi, pháp không
tạo tác, pháp trong tâm của Chư Phật, chư vị A-La-Hán, pháp
ấy như thế nào?
- Pháp ấy cũng vô ngã.
- Quý hóa thay! lành thay!
Tất cả các pháp đều là Vô Ngã. Tất cả Pháp là gồm
pháp hữu vi và vô vi! Vậy có lý chăng khi bảo rằng: "Vô
ngã của hữu vi và vô vi ấy là Niết Bàn?"
- Không thể được!
- Nầy chư huynh đệ! Vô
ngã là tính chất, là trạng thái của tất cả các Pháp dầu
là hữu vi hay vô vi! Vậy thì có thể lập ngôn: "Vô Ngã
là Niết Bàn" chăng?
Cả đại chúng đồng thanh nhất loạt:
- Không thể được!
Các vị tỳ-khưu phát biểu
rất lớn:
- Bạch Ngài! Chúng đệ
tử hiểu rồi, chúng đệ tử đã rõ rồi, không còn nghi ngờ
gì nữa. Chúng đệ tử vô cùng tri ân nhị vị Thượng Thủ
của Giáo Hội đã trăm phương nghìn cách, vì lòng bi mẫn đã
vận dụng tâm trí, đã khổ công khai sáng cho chúng đệ tử!
Một vị tỳ-khưu khác lại
tán thán:
- Kỳ diệu thay Trí Tuệ
của Bậc Tướng Quân Chánh Pháp! Kỳ diệu thay Trí Tuệ của
Bậc Vô Thượng Thần Thông! Chỉ vài đoạn đối thoại của
quý Ngài là những tà kiến ngu si bị vỡ tan như những bọt
nước.
Một vị tỳ-khưu nào đó,
đứng ở phía sau, cười ha hả một hồi rồi thốt lên:
- Ha, ha!... Cái đống phân
dơi này là vô ngã, té ra đống phân dơi này cũng Niết Bàn...
Ha, ha!
Ðức Xá-Lợi-Phất vẫn
trang nghiêm, phất tay cho đại chúng im lặng rồi hỏi tiếp
Ðại Mục-Kiền-Liên:
- Bạch Ðại Ðức! Niết
Bàn là gì?
- Bạch, là gì... thì
không nói được!
- Tại sao không nói được?
- Ðức Tôn Sư thường
im lặng mỗi khi ai hỏi Niết Bàn là gì.
- Vậy tại sao ở đây,
giữa hội chúng nầy, có người đã phát ngôn thành lời:
"Niết Bàn là Vô Ngã"?
- Ðức Tôn Sư không nói
mà ở đây có người nói được là vì họ chưa nghe được
lời dạy bảo của Ðức Tôn Sư.
- Xin vì lòng bi mẫn, Ðại
Ðức hãy cho hội chúng rõ, Ðức Thế Tôn đã chỉ dạy ra
sao về điều ấy?
- Ðức Thế Tôn dạy rằng
Niết Bàn ở ngoài bốn phạm trù sau đây: ở ngoài cái
"có", ở ngoài cái "không", ở ngoài cái
"vừa có vừa không", ở ngoài cái "không có
không không".
Ðến đây, Tôn giả
Xá-Lợi-Phất nói cho đại chúng nghe:
- Nầy chư huynh đệ!
Huynh đệ đã nghe rõ ràng lời dạy của Ðức Tôn Sư được
Trí Tuệ của Ðại Mục-Kiền-Liên lập lại. Vậy có lý chăng
khi chúng ta còn ôm ấp luận kiến: "Niết Bàn là Vô
ngã"?
Cả hội chúng đồng thanh:
- Không có lý chút nào!
Vị tỳ-khưu ở lẫn phía
sau lại nói to:
- Bạch quý Ngài! Nói
không có lý chút nào cũng chưa đúng lắm. Phải nói là lý
ngu si, lý tối tăm, lý ngốc nghếch, lý phẩn dơi, lý phẩn
chim, lý que củi ạ!
Một giọng khác át đi:
- Huynh đệ, hãy từ tốn
cái miệng. Chúng ta là tỳ-khưu, đều là chúng đệ tử của
Giáo Hội Ðức Tôn Sư; ở đây lại còn có hai bậc Thượng
Thủ, hai bậc Ðại Trưởng lão đạo cao đức trọng. Chúng
ta phải biết lựa lời cho dễ nghe một chút. Nhị vị Trưởng
lão sẽ không chấp nhất chúng ta, nhưng chúng ta cũng phải biết
tự hổ thẹn chứ!
Một giọng khác:
- Ðại Ðức nói đúng
đấy! Phải biết nghe lời nói đúng! Phát ngôn của vị tỳ-khưu
nào đó không phải sai, không phải ác khẩu, không phải vọng
ngữ... nhưng dường như chưa được là mỹ ngữ, thanh tịnh
ngữ cho lắm!
- Hoàn toàn đúng!
Ðức Xá-Lợi-Phất và
Ðại Mục-Kiền-Liên đều mỉm cười. Lòng của hai vị rất
vui, rất hoan hỷ. Họ đều nghĩ rằng, trong không khí vừa
nghiêm túc, vừa đứng đắn, vừa cởi mở này thì nên giải
tan luôn cho đại chúng những mối nghi, những tà kiến, những
loạn kiến còn tồn tại xung quanh các tranh luận về Niết
Bàn. Chuyện ấy không những chỉ xảy ra ở đây, mà có thể
ở khắp mọi nơi, bất cứ chỗ nào "khổ đế" chưa
được liễu tri và rốt ráo Phạm hạnh chưa được thấy rõ.
Ðại Mục-Kiền-Liên
nói với đại chúng:
- Chư hiền! Thế là những
câu trả lời sắc bén và thực luận đanh thép của Tôn giả
Xá-Lợi-Phất về hai vấn đề : " Vô Ngã là Niết bàn,
Niết Bàn là Vô Ngã" đã bị rã tan như nắm tuyết dưới
ánh nắng mặt trời. Trong chư hiền có ai nghi ngờ gì về điều
ấy nữa không?
- Bạch Ngài, hoàn toàn
không, hoàn toàn thấu suốt.
Một tỳ-khưu cất giọng
rổn rảng:
- Một ngụ ngôn rất xưa
về con cá và con rùa trong chiếc ao nọ, không ai là không biết,
nhưng đây là vì chúng đệ tử không chịu tu tập, không chịu
kham nhẫn, khổ công ngày đêm hiện quán; cứ tưởng là trí
năng, luận lý có thể với tới bến miền bên kia mà sinh ra
đa ngôn, đại vọng, ngã mạn. Rõ chúng đệ tử là những
con cá ngu si, tự mãn, kênh kiệu trong cái ao tù đọng của đời
mình. Xin nhị vị Tôn giả xá tội cho.
Tôn giả Xá-Lợi-Phất
hoan hỷ:
- Lành thay! Chư hiền không
có tội gì!
Im lặng nhìn quanh một
lát, Tôn giả nói tiếp:
- Còn những tri kiến
liên hệ đến Niết Bàn sau đây, chúng ta cũng nên đem ra thảo
luận, hy vọng chư hiền sẽ đi đến chỗ "kiến hòa".
- Xin Tôn giả giáo giới.
- Này chư hiền! Nếu ở
đây có người bảo: " Niết Bàn là thường còn" - Chư
hiền nghĩ thế nào?
Ðại chúng đồng thanh
đáp:
- Là thường kiến, tà
kiến.
Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi
tiếp:
- Niết Bàn là thường lạc?
- Là thường kiến, tà
kiến!
- Cũng vậy, họ còn quan
niệm là "thường ngã", "thường tịnh"?
- Là thường kiến, tà
kiến!
- Niết Bàn là gồm cả
"thường, lạc, ngã, tịnh"?
- Là thường kiến, tà
kiến!
Ðại Mục-Kiền-Liên chợt
nói:
- Chư hiền! Chư hiền có
biết tại sao các luận sư ngoại đạo đem "thường, lạc,
ngã, tịnh" gán cho Niết Bàn chăng?
Ðại chúng im lặng, có
vẻ đang suy nghĩ thì có một người đáp:
- Thưa Tôn giả! Có lẽ
đấy là cái bánh bằng " bột ngoại", trộn nhiều
đường và chiên nhiều mỡ, ngon lắm đấy!
Cả hội chúng cười.
- Tại sao? Có người hỏi.
- Sao nữa! Vẫn giọng
người kia - nhưng đấy là cái bánh vẽ, huynh đệ ạ! Tưởng
là ngon nhưng không ăn được đâu.
- Ðứng có xa đề. Liệu
hồn cái miệng, có nhị vị Tôn Túc Trưởng lão ở đây.
- Sao lại xa đề! Tôi biết
hai vị Tôn giả không chấp ngôn, chấp ngữ; và tôi cũng biết
là hai vị Tôn giả đáng kính biết tôi nói gì.
Một vị tỳ-khưu nói
to:
- Tôi hiểu.
- Giải thích đi! Mọi người giục.
- Thưa chư Tôn giả - vị
tỳ-khưu kia đáp - Giáo Pháp của Ðức Tôn Sư dạy rằng:
"Các pháp hữu vi là vô thường, thay đổi, biến hoại!"
Nghe vậy, chúng sanh chạy tới, chạy lui hớt hải, bất an. Bọn
luận sư ngoại đạo bèn kêu lại: "Ðến đây, đừng sợ!
Hãy đến đây mà tu theo giáo pháp của ta! Giáo pháp của ta
là chiếc tàu to lớn, bằng sắt, ngang rộng cả hàng trăm do
tuần, kiên cố, vững bền, thường hằng, bất hoại - có thể
chở hết tất cả chúng sanh không phân ngu trí, trẻ già, tôm
tép, lươn chạch... đi đến thế giới trường xuân, miên viễn!"
Vậy thì, thưa chư Tôn giả! Ðấy không là chiếc bánh nhiều
mỡ, nhiều đường là gì?
- Hay lắm,! Ðúng lắm!
Nói tiếp đi!
- Giáo Pháp của Bậc Vô
Thượng Giác dạy rằng: " Các pháp hữu vi, tạo tác, kết
hợp... là khổ!" Nhưng cái bọn lắm miệng, xảo trí kia
bèn đem ra cái bánh khác, chúng nói: "Lại đây các bạn!
Hãy lại đây mà tu theo giáo pháp này! Tu theo giáo pháp này sẽ
được 'thường lạc, thường vui', sung sướng lắm! Cực lạc
lắm! Sung sướng cực kỳ!
- Tuyệt vời thay là
huynh đệ! Cho nghe tiếp!
- Giáo Pháp của Ðức Thế
Tôn dạy rằng: " Tất cả các pháp, dẫu hữu vi, dẫu vô
vi đều là vô ngã, không có tự tính, không có thực
tính". Chúng sanh bơ vơ quá không biết bám víu vào đâu.
Bọn luận sư ngoại đạo bảo rằng, không phải vậy, tu theo
các ông đây thì chân ngã cũng có, hữu ngã cũng có, đại ngã
cũng có! Thưa chư Tôn giả! Vậy là chúng lại đưa thêm những
cái bánh khác, thơm nức!
Hội chúng cười ồ thú
vị.
Chợt một người hỏi:
- Còn "thường tịnh"
thì sao hở huynh đệ?
- Hả! Thường tịnh hả!
Thì cũng vậy thôi! Chư Tôn giả đã từng ta-bà khắp các
thành phố lớn ở Châu Diêm Phù Ðề này, chắc chư Tôn giả
đã thấy rõ điều ấy rồi!
- Thấy sao ạ?
- Thấy người ta đâm
chém nhau để kiếm tiền, thấy người ta dùng đủ tất cả
mọi thủ đoạn gian manh quỉ quyệt để làm giàu. Làm giàu
để làm gì vậy? Một là lấp cho đầy cái túi tham không đáy.
Hai là để được vinh cái thân, phì cái da. Cho cái thân ấy
được đú đởn, ăn ngon mặc đẹp, trang điểm hoa hòe, hoa
sói, lên ngựa xuống xe, nhà cao cửa rộng... Nghĩa là chúng
sanh chỉ vì muốn cho cái thân được sung sướng, cực lạc mà
không từ nan bất cứ ác nghiệp nào! Ðức Vô Thượng Chí
Tôn vì thấy chúng sanh bám víu, đeo luyến, chìm đắm, mê chấp
vào cái thân mà đi vào con đường đọa đày, thống khổ...
nên Ngài phải chỉ cái "như thực" của cái thân ấy
cho chúng sanh thấy. Cái thân ấy à - thấy mà ghê! Nào đờm,
dãi, phân, nước tiểu, phổi phèo, tim cật... Nào là bệnh
lác, bệnh hủi, ghẻ, mụt nhọt v.v... Ôi! Tất cả đều gớm
ghiết! Quán thân "b?t tịnh" là vậy. Thân như gốm sứ
mỏng manh, là cái bao da đựng thịt xương, máu mủ, là một
đống thịt thối, một ổ bệnh tật, một cái hòm tội lỗi,
đớn đau và phiền não. Ðấy là cái như thực. Như thực bất
tịnh là cái thân này. Thế mà chúng ngoại đạo đưa ra cái
chủ trương "thường tịnh" là sao hở? Chúng có âm mưu
gì? Có phải nối dài con đường đau khổ để chúng sanh mê
đắm, đú đỡn nơi cái thân? Hay là quả thật chúng thấy đờm
dãi, phân, nước tiểu... kia là thanh tịnh, thường trong sạch,
thường ngon thơm hả?
Hội chúng lại cười.
Thấy họ đã đi quá xa
trong sự luận bác thiên về chỉ trích chứ không thiên về
trình bày, kiến giải, xây dựng nên Tôn giả Xá-Lợi-Phất
ngăn lại:
- Thôi vừa rồi, thôi đủ
rồi, chư hiền! Chúng ta đừng nên đi quá xa. Ðức Tôn Sư có
nói rằng: "Thế gian luận tranh với Như Lai - Như Lai không
luận tranh với thế gian". Vậy thì vấn đề Niết bàn,
hy vọng rằng từ rày về sau chúng ta đừng rơi vào những luận
kiến ấy nữa. Từ rày về sau chúng ta đừng nên đoán mò,
giải thích, lý luận Niết Bàn là như thế nào. Không đúng
đâu. Niết Bàn không có thể nói bằng ngôn ngữ, ý niệm. Niết
Bàn là cái thực, cái chân đế, cái siêu thế. Nó ở ngoài mọi
nắm bắt của lý trí, kiến thức, tri thức; Niết Bàn là
cái mà chúng ta phải tu chứng, hiện quán, kiến chiếu để
thấy rõ, để thể nhập chứ không phải ở đầu môi, chót
lưỡi. Thấy Niết Bàn là phải thấy bằng Tuệ nhãn, bằng
Trí Tuệ Bên Kia Bờ, Trí Tuệ của Ðệ Nhất Nghĩa Ðế.
Dùng các khái niệm, ý niệm của bờ bên này, của tục đế
mà diễn đạt, nói năng, lập ngôn để kiến giải về bờ bên
kia thì chẳng khác gì con cá ở trong ao hồ mà kể chuyện
trên mặt đất cho mọi người nghe! Có phải vậy không, chư
hiền?
- Ðúng vậy! Tri ân nhị
vị Trưởng lão!
Có tiếng một người:
- Vậy vô ngã là gì nhỉ?
Một người đáp:
- Câu hỏi ấy đã là hữu
ngã rồi đấy, huynh đệ!
- Một niệm khởi, không
chấp vào niệm ấy là vô ngã; chấp nào niệm ấy là hữu
ngã, huynh đệ!
Chợt Ðại Mục-Kiền-Liên
cao giọng:
- Chư hiền hãy nghe đây!
Những giải đáp của chư hiền là đúng, tuy nhiên chưa nói
ra được cái lý do cốt yếu mà chúng ngoại đạo gán ghép
"thường, lạc, ngã, tịnh" cho Niết Bàn. Thứ nhất,
ở đây, có kẻ vô văn phàm phu không học pháp của bậc
Thánh, không tu tập pháp của bậc Thánh, không thấy rõ,
không chứng đắc pháp của bậc Thánh - nên chúng bảo rằng
Niết Bàn của ông Cồ Ðàm là hư vô còn Niết Bàn của
chúng là đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Thứ hai, khi mà
lý tưởng về một đấng Phạm Thể, đấng sáng tạo chủ,
đấng hóa sanh chủ, đấng thượng đế hằng sinh, đại ngã
thần hóa truyền đời của đạo Bà la môn đã bị Ðức Tôn
Sư đập vỡ, hạ bệ, lôi tuột xuống mặt đất - chúng bèn
đưa ra một luận điểm khác, chủ trương khác: thường, lạc,
ngã, tịnh - là nội dung, là tính chất của Niết Bàn! Chư hiền
có biết sao không? Thường, lạc, ngã, tịnh chỉ là trạng
thái tâm, là cảnh giới của vị Ðại Phạm Thiên, bất cứ
ai trong chư hiền ở đây đắc định sơ thiền vững chắc đều
có thể hóa sanh ở đấy và sống đầy đủ với bốn ảo
tưởng thường, lạc, ngã, tịnh nầy!
Ồ! Thật không có gì
rõ ràng hơn thế nữa!
Kỳ diệu thay! Sau buổi
vấn đáp, trao đổi, thảo luận ấy có rất nhiều vị tỳ-khưu
chứng được Tu-Ðà-Huờn, nhập vào dòng Thánh.
Khi mọi người từ giã
nhau, tản mát trong rừng cây, vườn nhà, trong làng để tạm
trú qua đêm - Ðức Ðại Mục-Kiền-Liên nói với Tôn giả
Xá-Lợi-Phất:
- Thù thắng sao là buổi
thiền đàm này! Thù thắng sao là trí tuệ của hiền huynh! Những
tỳ-khưu trẻ này, từ đây đã hoàn toàn giải được những
mối nghi. Mau hay chậm họ cũng thấy rõ Niết Bàn thôi.
- Vâng, đúng vậy! Trí tuệ đoạn tận lậu hoặc
sẽ đến với họ, mau hoặc chậm thôi!
Ðại Mục-Kiền-Liên chợt
hỏi:
- Còn hành trình trí tuệ
của hiền huynh như thế nào? Nghĩa là hành trình trí tuệ để
đoạn lìa phiền não nội tâm, đoạn lìa vi tế sở tri chướng
của hiền huynh nó mau hay chậm để thấy đạo, thấy quả?
- Có bốn hạng người
thành tựu trực giác giống nhau nhưng căn cơ nhanh, chậm khác
nhau đấy hiền đệ ạ!
- Xin hiền huynh giảng rộng
ra.
- Vâng! Hạng tiến hóa vừa
khó khăn vừa chậm chạp. Hạng tiến hóa khó khăn nhưng nhanh
chóng. Hạng tiến hóa dễ dàng nhưng chậm chạp. Hạng tiến
hóa vừa dễ dàng vừa nhanh chóng!
-Hiền huynh chắc phải
là căn cơ bậc thượng!
Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi:
- Còn đệ thì như thế
nào?
Ðại Mục-Kiền-Liên mỉm
cười đáp:
- Dĩ nhiên là không thể
bằng Bậc Ðại Trí Tuệ rồi!
Cả hai vị Ðại Ðệ Tử
này dường như là cố ý san sẻ, bổ túc cho nhau để ai cũng
có thể đi đến chỗ toàn bích. Hơn ai hết, họ biết rằng,
kiến thức, trí tuệ của một vị A-La-Hán không thể so sánh
với kiến thức, trí tuệ của một vị Phật Toàn Giác.
Chính Ðức Phật Thích Ca thuở còn là đạo sĩ Sumedha, Ngài
có thể chứng đắc đạo quả A-La-Hán vào thời Ðức Phật
Nhiên Ðăng (Dìpankara) nhưng Ngài đã không an trú ở đấy. Ngài
đã bổ túc công hạnh, trí tuệ trải qua hai mươi bốn vị
Phật Tổ - từ Phật Nhiên Ðăng cho đến Phật Ca-Diếp - là
bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp để hành Ba-La-Mật.
Vậy một vị A-La-Hán tuy đoạn tận vô minh, ái dục, phiền
não, được vô sanh và giải thoát nhưng còn biết bao nhiêu
kinh nghiệm. phương tiện trí cần phải được học hỏi; biết
bao nhiêu loại trí tuệ, công hạnh khác cần phải được bổ
túc cho tròn đủ vì lợi ích cho phần đông
--- o0o ---
Mục
lục - [01] - [02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục