Bà
Sàrì
chống
gậy
lui
vào
phòng,
nói
mà
không
hề
ngoái
lại:
-
Có
gì
mai
hãy
nói!
Chỗ
ở
của
ông
yêu
cầu
đã
dọn
sẵn,
chỗ
ở
cho
hơn
năm
trăm
vị
tỳ-khưu
đều
đâu
đó
cả
rồi,
có
gì
sai
bảo,
nước
nôi,
giặt
giũ
-
có
gia
nhân
sẵn
sàng
túc
trực
hẳn
hòi!
-
Cám
ơn
mẹ.
-
Thưa
mẹ,
con
là
Cunda.
Con
cũng
về
thăm
mẹ
đây!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
bước
vào
căn
phòng
xưa,
vừa
ngồi
vào
giường
là
một
căn
bệnh
trầm
trọng
phát
sanh.
Trưởng
lão
Cunda
thấy
đại
huynh
trưởng
có
vẻ
đau
đớn,
ái
ngại
hỏi:
-
Em
có
giúp
gì
được
cho
đại
huynh
không?
-
Có
lẽ
đêm
nay
phải
làm
phiền
em
đây!
-
Ðược
giúp
đại
huynh
lần
cuối
này,
không
dễ
gì
ai
cũng
có
may
mắn
ấy!
-
Anh
bị
bệnh
tả
lỵ
đấy
em
ạ!
Hãy
chuẩn
bị
mấy
cái
"bô".
Thế
rồi,
sau
đó
Tôn
giả
đi
tả
liên
hồi.
Trưởng
lão
Cunda
đi
vào
đi
ra
hoài
với
cái
bô
trên
tay.
Bà
Sàrì
thấy
phòng
con
trai
còn
thắp
sáng,
lịch
kịch
có
tiếng
động,
bà
hé
cửa
nhìn
sang.
Thấy
Trưởng
lão
Cunda
tất
tả
vào
ra,
bà
biết
chuyện.
Cho
đến
gần
nửa
khuya,
bệnh
mới
giảm
bớt.
Bà
nghĩ:
"-
Con
trai
của
ta
đi
tả
liên
tục,
chắc
là
đau
đớn
lắm,
nhưng
nó
không
hề
rên
la
lấy
một
tiếng.
Thiệt
lạ
đời!
Cả
ông
Cunda
cũng
vậy,
cũng
lặng
lẽ.
Sao
họ
giống
nhau
đến
thế?
Ôi!
Người
Mẹ
này
lo
lắng
cho
con
mà
dường
như
không
dính
đến
họ
được."
Bà
không
thể
ngủ,
cứ
chong
tai
lắng
nghe,
chong
mắt
để
nhìn.
Lúc
ấy,
Tứ
Trấn
Thiên
Vương
gặp
nhau,
nghĩ
rằng
họ
phải
có
bổn
phận
đi
thăm
lần
chót
Bậc
A-La-Hán
Trưởng
lão
nên
đã
với
thời
gian
như
viên
lực
sĩ
duỗi
cánh
tay,
hào
quang
sáng
rực,
họ
hiện
trong
phòng
Ngài,
cung
kính
lễ
bái
rồi
đứng
hầu
một
bên.
Tôn
giả
biết
chuyện
này
nên
dùng
thần
thông
để
cho
bà
Sàrì
nghe
thấy
quang
cảnh
và
cuộc
đàm
thoại.
Tôn
giả
hỏi
lớn:
-
Các
vị
là
ai?
-
Bạch
Tôn
giả,
chúng
tôi
là
Ðại
Thiên
Vương
cai
quản
bốn
châu.
-
Các
vị
đến
đây
có
việc
gì?
-
Thưa,
thứ
nhất
là
để
chiêm
ngưỡng
thăm
viếng
Tôn
giả
lần
cuối
cùng,
thứ
hai
là
đến
đây
để
Tôn
giả
tùy
nghi
sai
bảo.
Tôn
giả
nói:
-
Vậy
thì
cảm
ơn
các
vị
trời
đầy
oai
đức
đã
bỏ
công
thăm
viếng.
Bệnh
tình
tôi
đã
thuyên
giảm,
lại
có
Trưởng
lão
Cunda
ở
đây,
khỏi
phiền
đến
các
vị.
Thời
cũng
đã
phải
lẽ,
các
vị
hãy
đi
đi!
Họ
vâng
lời,
đảnh
lễ
Tôn
giả,
rồi
như
vầng
trăng
sáng,
họ
mất
hút
giữa
hư
không.
Thiên
Chủ
Ðế
Thích
-
Thiên
vương
cõi
trời
Ðao
Lợi
-
nghĩ
mình
phải
có
bổn
phận
đưa
tiễn
Bậc
Ðại
Chưởng
Pháp
nên
với
oai
nghi,
hào
quang,
thần
lực
hiện
bên
giường
Tôn
giả
trong
chớp
mắt.
Cũng
qua
một
hồi
đối
thoại
ngắn,
Trời
Ðế
Thích
cung
kính
đảnh
lễ
rồi
xin
rút
lui.
Trời
đã
khuya,
không
những
trong
vườn
bà
Sàrì
mà
dường
như
cả
làng
Nàlaka
đồng
trở
nên
sáng
rực.
Ðó
là
các
vị
Ðại
Phạm
Thiên
xuống
hầu
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
cũng
cung
kính
nghiêng
lưng
thi
lễ
và
muốn
săn
sóc
bệnh
tình
cho
Ngài.
Tôn
giả
cảm
ơn
và
rồi
họ
cũng
cáo
biệt.
Bà
Sàrì
chứng
kiến
từ
đầu,
thấy
rõ
quang
cảnh
và
nghe
không
sót
lời
một
nào,
bà
nghĩ
rằng:
"-
Không
biết
những
vị
nào
như
các
Ðấng
Thiên
Thần
oai
lực
và
cao
sang
như
thế
lại
đến
thăm
con
ta,
đảnh
lễ
con
ta
rồi
nói
gì
rằng
là...
hầu
hạ...
sai
bảo
nữa?
Mà
cũng
kỳ
lạ,
là
con
ta
có
vẻ
lớn
hơn
họ,
là
bậc
Thầy
của
họ?"
Bà
Sàrì
rời
phòng,
rón
rén
đến
tận
cửa
phòng
của
Tôn
giả,
muốn
gặp
Trưởng
lão
Cunda
để
thăm
hỏi
bệnh
tình.
Tôn
giả
đã
biết
chuyện
này
nên
bảo
Trưởng
lão
Cunda
mở
cửa
để
bà
Sàrì
vào.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
dựa
lưng
trên
chiếc
gối,
ngồi
dậy:
-
Ðã
khuya
rồi
mẹ
chưa
đi
ngủ
sao?
-
Mẹ
ngủ
sao
được
khi
tả
lỵ
nó
hành
hạ
con
như
thế!
-
Con
đã
khỏe
rồi
mẹ
ạ!
Bà
lặng
lẽ
quan
sát
thần
sắc
Tôn
giả
thấy
có
hư
hao
nhưng
vẫn
toát
ra
cái
an
nhiên,
thanh
thản
lạ
kỳ!
Rồi
căn
phòng
bệnh
của
tả
lỵ,
mà
sao
lại
thanh
sạch
và
như
tỏa
mùi
hương
(các
vị
trời
âm
thầm
bỏ
lại
hương
trời,
tẩy
xú
khí).
-
Này
con!
-
bà
Sàrì
hỏi
-
Tại
sao
đã
khuya
rồi
mà
có
những
người
đến
thăm
con
như
vậy?
Các
vị
đầu
tiên
là
ai
mà
oai
phong
lẫm
liệt,
oai
gấp
trăm
lần
vua
loài
người,
mà
chung
quanh
họ
lại
sáng
rực
như
có
hào
quang?
Họ
là
ai
vậy
con?
Chưa
trả
lời
vội,
Tôn
giả
bảo
Trưởng
lão
Cunda
lấy
cho
Mẹ
một
cái
ghế,
còn
Tôn
giả
sửa
lại
oai
nghi,
ngồi
kiết
già
rồi
mới
nói
chuyện:
-
Thưa
mẹ!
Ðấy
là
bốn
vị
Vua
Trời,
còn
gọi
là
Tứ
Ðại
Thiên
Vương
oai
trấn
bốn
châu
thiên
hạ
đấy!
-
Bà
Sàrì
rùng
mình,
nổi
gai
ốc:
"hèn
gì!"
Rồi
bà
bồn
chồn
hỏi:
-
Họ
oai
đức
như
vậy,
cao
sang
như
vậy,
sao
họ
lại
đến
thăm
con,
cung
kính
đảnh
lễ
con?
Có
lẽ
nào
con
lại
cao
hơn
họ
sao?
-
Thưa
mẹ!
Những
vị
Trời
ấy
có
tâm
rất
cao
thượng,
họ
hằng
hộ
trì
Phật
Pháp.
Khi
Ðức
Bổn
Sư
đản
sanh,
chính
họ
tiếp
bồng
hoàng
tử
bằng
tấm
da
mịn.
Họ
luôn
luôn
bảo
vệ
Ðức
Bổn
Sư,
như
bốn
vì
Thiên
Tướng
cặp
kè
với
gươm
giáo
sáng
lòe
vậy.
Con
cũng
hay
giảng
đạo,
dạy
đạo
cho
họ
nên
họ
cung
kính
con,
coi
con
như
bậc
Thầy!
Bà
Sàrì
nghe
vậy,
hoan
hỷ
đến
tận
chân
tơ
kẻ
tóc.
Móm
mém
cười,
bà
hỏi
tiếp:
-
Còn
vị
đến
sau?
Vị
đó
ngó
bộ
oai
sang
hơn
bốn
vị
trước!
cái
thân
như
tạc
bằng
ngọc
ngà
châu
báu,
hào
quang
đã
sáng
mà
lại
đẹp.
Ôi,
lại
đẹp
một
cách
lạ
lùng!
Vị
ấy
là
ai?
-
Thưa
mẹ!
Vị
đó
là
Vua
cõi
Trời
Ba
mươi
Ba
hay
còn
gọi
là
cõi
Trời
Ðao
Lợi
mà
người
ta
hay
gọi
là
Ðế
Thích
Thiên
Vương.
Vị
này
cũng
còn
là
vua
của
bốn
vị
kia
nữa.
Thế
gian
hay
gọi
vị
này
là
Ngọc
Hoàng
Thượng
Ðế,
vì
Ngài
có
rất
nhiều
thần
lực.
-
Vị
như
vậy
mà
còn
thua
cả
con
sao?
-
Thưa
mẹ!
Ðối
với
tỳ-khưu,
đối
với
chúng
con
thì
vị
Trời
ấy
cũng
như
một
chú
sa-di,
một
người
hầu
để
sai
bảo
việc
vặt
thế
thôi!
-
Khiếp!
Nghe
ông
con
nói
mà
khiếp!
Tôn
giả
mỉm
cười:
-
Mẹ
không
tin
sao?
Ðể
con
gọi
Ông
Ðế
Thích
ấy
xuống
đây,
sai
bảo
cho
Mẹ
xem
nhé?
Bà
Sàrì
chối
đây
đẩy,
xua
tay
lia
lịa:
-
Thôi!
Thôi!
Mẹ
tin
rồi!
Thấy
oai
tướng
của
ông
Trời
ấy
mẹ
đã
khiếp
rồi!
Mẹ
thiếu
đức,
thiếu
phước
nên
sẽ
cúi
đầu,
run
rẫy
trước
ông
ta
mà
thôi!
Tôn
giả
giải
thích
tiếp:
-
Có
một
mùa
an
cư,
Ðức
Thế
Tôn
nhập
hạ
ở
cõi
Trời
ấy
về.
Chính
vị
Trời
Ðế
Thích
cao
sang
ấy
đã
mang
y
bát
cho
Ðức
Thế
Tôn,
tiễn
đưa
Ðức
Thế
Tôn
đến
tận
quả
đất
với
lòng
thương
kính
và
trân
trọng.
-
Ồ!
Còn
mấy
vị
đến
sau,
hào
quang
sáng
cả
vùng
trông
rõ
mồn
một
như
ban
ngày?
Ôi!
Các
vị
này
thân
thể
như
ánh
sáng,
nhẹ
nhàng,
thanh
cao
và
tinh
khiết
làm
sao!
Mới
thấy
họ
thôi
mà
tâm
hồn
mẹ
đã
lâng
lâng,
mát
mẻ
vô
cùng.
Họ
là
ai
vậy
con?
-
Thưa
mẹ!
Ðấy
chính
là
những
vị
Ðại
Phạm
Thiên,
là
những
Bậc
Thần
Linh
Cao
Cả
mà
mẹ
tôn
thờ
đấy!
-
Hả?!!!
Bà
Sàrì
tròn
xoe
đôi
mắt,
ngạc
nhiên
quá,
miệng
dường
như
không
còn
ngậm
lại
được.
Biết
mẹ
đã
khởi
tâm
tịnh
tín,
Tôn
giả
giảng
tiếp:
-
Vào
ngày
Ðức
Bổn
Sư
xuất
thế,
có
bốn
vị
Ðại
Phạm
Thiên
ở
cõi
Trời
Ngũ
Tịnh
Cư
Thiên,
bốn
người
bốn
góc
đã
căng
một
tấm
lưới
bằng
vàng
mịn
tiếp
hoàng
tử
đấy.
Thường
thường
vào
buổi
khuya,
Ðức
Thế
Tôn
thuyết
pháp
cho
họ
nghe.
Không
những
họ
coi
Ðức
Bổn
Sư
là
Bậc
Thầy
Vô
Thượng
mà
họ
cũng
xem
chúng
con
như
Bậc
Thầy
mà
họ
hằng
ngưỡng
mộ,
tôn
sùng!
Bà
Sàrì
tâm
tư
đã
hoàn
toàn
đổi
khác,
bà
nghĩ:
"-
Ôi!
Ai
ngờ
rằng
con
trai
ta
mà
cao
cả
đến
thế,
cho
đến
các
vị
Ðại
Phạm
Thiên
mà
giòng
tộc
ta
tôn
thờ,
lễ
lạy,
cúng
kiến
từ
đời
này
sang
kiếp
nọ
cũng
ở
dưới
con
ta
không
biết
bao
nhiêu
bực!
Ôi!
Nếu
con
ta
đã
là
vậy
thì
oai
đức
của
Ðức
Thế
Tôn
kia
cao
lớn
biết
dường
nào?"
Một
sự
thỏa
thích,
hoan
hỷ
tràn
ngập
tâm
ta
bà;
một
niềm
mát
mẻ,
trong
lành
tỏa
khắp
cả
châu
thân
bà.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
ghi
nhận
được
sự
diễn
biến
ấy,
và
đây
là
thời
tốt
đẹp
nhất
để
thuyết
cho
bà
rõ
ạn
Ðức
của
Tam
Bảo.
Tôn
giả
bèn
hỏi:
-
Thưa
mẹ!
Mẹ
nghĩ
gì
mà
khuôn
mặt
mẹ
rạng
sáng
đến
như
vậy?
-
Này
con!
Không
rạng
sáng
sao
được
khi
con
trai
của
mẹ
cao
cả
hơn
các
Ngài
Ðại
Phạm
Thiên?
Và
chắc
chắn
rằng
Thầy
của
con,
Ðức
Thế
Tôn
lạ
lùng
ấy,
rõ
đúng
là
vô
biên
vô
lượng
ân
đức
nhất
dưới
gầm
trời
này!
Tôn
giả
gật
đầu:
-
Ðúng
vậy
mẹ
ạ!
Mẹ
đã
suy
nghĩ
rất
đúng.
ạn
đức
của
một
vị
Phật
thì
chính
ngay
hư
không
hay
biển
cả
kia
cũng
không
thể
so
sánh
được.
Mẹ
biết
không?
Dễ
gì
có
một
Ðức
Chánh
Ðẳng
Chánh
Giác
xuất
hiện
trên
đời
này?
Phải
kể
đến
hằng
trăm
đại
kiếp
mới
tượng
ra
được
một
nhân
cách
hùng
vĩ
như
thế.
Ngày
Ðức
Bổn
Sư
ra
đời,
quả
địa
cầu
dày
bốn
mươi
do
tuần
này
rung
chuyển
ba
lần.
Ngày
Ðức
Thế
Tôn
thành
đạo
cũng
thế.
Không
những
địa
đại
rung
chuyển
mà
cả
hằng
vạn
cõi
trên
khắp
đại
thiên
thế
giới
cũng
chấn
động
như
sóng
dội!
Thưa
mẹ!
Con
thì
đã
có
nghĩa
gì,
mặc
dầu
giữa
thế
gian
này,
con
đứng
hàng
thứ
hai
sau
Ðức
Phật!
Về
Phước
Ðức,
về
Ðịnh
Lực,
về
Trí
Tuệ,
về
Giải
Thoát,
về
Kiến
thức
hiểu
biết
quảng
đại,
về
Phẩm
Hạnh,
về
Công
Hạnh,
về
các
Tâm
Vô
Lượng:
Từ,
Bi,
Hỷ,
Xả
thì
con
cũng
đã
thành
tựu
khá
nhiều,
nhưng
so
với
Ðức
Phật
thì
có
thể
ví
như
hạt
cát
với
biển
cát
của
con
sông
Ðại
Hằng,
như
một
hạt
bụi
so
với
ngọn
Hy
mã
lạp
sơn!
Rồi
tuần
tự,
từ
từ,
chậm
rãi,
Tôn
giả
nói
cho
bà
Sàrì
nghe
về
ạn
Ðức
của
Phật,
ạn
Ðức
của
Pháp,
ạn
Ðức
của
Tăng...
làm
cho
bà
Sàrì
như
rơi
vào
vùng
biển
trời
bao
la,
lạ
lùng,
choáng
ngợp,
hùng
vĩ,
huy
hoàng...
Thời
Pháp
chưa
chấm
dứt
mà
bà
đã
đắc
quả
Tu-Ðà-Huờn,
nhập
vào
dòng
Thánh.
Bà
Sàrì
hoan
hỷ
quá,
hân
hoan
quá,
bà
thốt
ra
lời
trong
những
giọt
lệ
mừng
vui,
lần
thứ
nhất
và
cuối
cùng
ở
trong
đời:
-
Này
Upatissa!
Từ
nay
mẹ
không
dám
gọi
xách
mé
ông
nữa,
mà
mẹ
sẽ
gọi
ông
là
tỳ-khưu
Upatissa,
là
Sa
môn
Xá-Lợi-Phất!
Một
người
có
ân
đức
vô
lượng
vô
biên,
đã
cho
mẹ
uống
được
những
giọt
nước
ngọt
ngào,
đã
cho
mẹ
thấy
rõ
đường
đi
nước
bước,
biết
đặt
đức
tin
đâu
là
đúng,
đâu
là
sai.
Ôi!
Quý
hóa
thay!
Này
Sa
môn
Upatissa!
Sao
từ
trước
đến
nay
ông
không
chịu
dẫn
dắt
mẹ?
Tại
sao
trong
suốt
những
năm
tháng
qua,
ông
không
cho
mẹ
một
sự
hiểu
biết
Chơn
Chánh,
Bất
Tử
này?
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
hân
hoan
tự
nghĩ:
"-
Thế
là
ta
đã
báo
đáp
được
trong
muôn
một
ân
sinh
thành
dưỡng
dục
cho
Mẹ.
Và
đấy
chính
là
điều
phải
làm
duy
nhất
còn
lại
đối
với
ta.
Vậy
mọi
bổn
phận
trên
đời
này
ta
đã
hoàn
tất,
đã
chu
toàn,
ta
ra
đi
là
phải
lẽ,
đúng
thời"
Khi
bà
Sàrì
rời
khỏi
phòng,
Tôn
giả
hỏi
Trưởng
lão
Cunda:
-
Giờ
là
canh
mấy
rồi?
-
Thưa,
đã
quá
canh
ba,
trời
đã
rạng
sáng.
-
Ta
muốn
nói
chuyện
với
Chư
Tăng
lần
cuối
cùng,
em
triệu
tập
giúp
ta
nhé!
-
Thưa
vâng!
-
Ta
đã
tập
trung
tất
cả
mọi
sức
lực
còn
lại
để
nói
chuyện
với
mẹ,
giờ
ta
yếu
lắm!
Em
hãy
bảo
người
khiêng
ta
ra
Nhà
Hội,
Chư
Tăng
cũng
sẽ
tụ
họp
ở
đấy!
-
Thưa
vâng!
Khi
đã
an
vị
đâu
đó
xong
xuôi,
nhìn
Chư
Tăng
một
cách
rất
ân
cần,
Tôn
giả
nói:
-
Tất
cả
mọi
điều
đáng
nói,
ta
đã
nói
hết
rồi.
Bây
giờ
ta
chỉ
xin
các
thầy
hoan
hỷ
bỏ
lỗi
cho
ta
vì
một
vài
hành
vi
hay
lời
nói
nào
đó
mà
làm
cho
các
thầy
buồn
lòng.
Trên
con
đường
tấn
tu
Phạm
hạnh,
ai
cũng
có
những
sai
lầm,
không
nhiều
thì
ít.
Ðây
là
giây
phút
cuối
cùng,
các
thầy
hỷ
xả
bỏ
qua
cho
ta
nhé?
Chư
Tăng
đệ
tử
của
Tôn
giả
đồng
trả
lời:
-
Ngài
đừng
nói
như
thế
mà
tội
nghiệp
cho
chúng
con.
Ôi!
Quả
thật
một
sự
mếch
lòng
nhỏ
như
hạt
bụi
giữa
Ngài
đối
với
chúng
con
cũng
không
có!
Với
chúng
con,
Ngài
là
một
viên
ngọc
Mani
không
tỳ
vết,
là
mặt
trăng,
là
mặt
trời
lồng
lộng
giừa
không
trung!
Dù
Ngài
có
ra
đi,
có
khuất
bóng,
dấu
chân
Bất
Diệt
và
Cao
Cả
của
Ngài
vẫn
còn
đó.
Chúng
con
nguyện
đi
theo
dấu
chân
ấy
và
ghi
khắc
hình
ảnh
của
Ngài
vào
tâm
khảm.
Phải
nói
ngược
lại
mới
đúng:
xin
Ngài
hoan
hỷ
xá
tội
cho
những
lầm
lỡ
của
chúng
con!
-
Lành
thay
-
Tôn
giả
nói,
giọng
đã
yếu
lắm
-
Hãy
lấy
Phật
làm
ngọn
đèn,
hãy
lấy
Pháp
làm
chân
lý
lên
đường,
hãy
lấy
Tăng
làm
áo
giáp
ngăn
che.
Vậy
các
thầy
sẽ
được
bình
an
về
nơi
cõi
miền
Giác
Ngộ.
"Hãy
tinh
tấn,
gia
công
chuyên
niệm,
kiên
trì
chăm
chú
đừng
có
xao
lãng
-
đấy
là
lời
dạy
cuối
cùng
của
ta."
Các
thầy
hãy
lui
ra!
Cả
năm
trăm
vị
tỳ-khưu,
rất
nhiều
vị
đỏ
lệ
ngậm
ngùi
nhưng
đều
vâng
dạ,
bước
ra
ngoài,
vòng
tay
cúi
đầu
hoặc
nhìn
vào.
Bên
cạnh
Tôn
giả
chỉ
còn
ba
vị
Trưởng
lão
A-La-Hán,
đó
là
Cunda,
Ly-Bà-Ða
và
A-Nậu-Ðà-La.
Tôn
giả
ngước
nhìn
cả
ba
vị
Trưởng
lão
rồi
nói
nho
nhỏ:
-
Giờ
là
phải
thời,
cho
phép
tôi
đi
trước
chư
hiền!
Cả
ba
lặng
lẽ
chấp
tay,
cúi
đầu.
Tôn
giả
xoay
người
nằm
nghiêng
về
bên
phải,
chân
phải
duổi
thẳng,
chân
trái
co
lên,
đầu
gối
lên
cánh
tay
phải,
tay
trái
bỏ
dọc
theo
thân
mình.
Trưởng
lão
Cunda
kéo
y
ngoại
phủ
chân
và
phủ
đầu
Ngài.
Lát
sau,
nhiếp
tâm,
Tôn
giả
nhập
Sơ
thiền,
từ
Sơ
thiền
Ngài
đi
vào
Nhị
thiền,
Tam
thiền,
Tứ
thiền,
Không
vô
biên
thiền,
Thức
vô
biên,
Vô
sở
hữu,
Phi
phi
tưởng
rồi
đi
vào
Diệt
thọ
tưởng
định.
Từ
Diệt
thọ
tưởng
định,
một
lượt
nữa,
Ngài
xuống
lại
Sơ
thiền.
Từ
Sơ
thiền
Ngài
lên
lại
Tứ
thiền.
Dừng
lại
ở
Tứ
thiền,
Ngài
trú
sâu
viên
mãn
vào
đại
định
rồi
hoàn
toàn
đi
vào
Niết
Bàn
Tịch
Diệt.
Lúc
ấy,
vầng
thái
dương
cũng
bắt
đầu
ló
dạng
ở
chân
trời
như
chào
đón
một
Bậc
Vĩ
Nhân,
một
Ngôi
Sao
Sáng
đã
đi
vào
vĩnh
cửu.
Hôm
đó
là
ngày
trăng
tròn
tháng
Kattika
ở
Ấn
Ðộ,
vào
khoảng
giữa
tháng
10
và
11
Dương
lịch.
*
*
*
Bà
Sàrì
nằm
nghỉ
một
lát
thì
trời
đã
sáng
bừng,
bà
vội
vả
trở
dậy
với
ý
nghĩ:
"không
biết
bệnh
tình
của
Ông
con
ta
giờ
ra
sao?"
Bà
bước
sang
phòng,
vắng
tanh.
Thấy
mọi
người
trang
nghiêm
đứng
trong
Nhà
Hội,
bà
bước
vào.
Tới
nơi
chỗ
nằm,
bà
lần
lượt
sờ
chân,
sờ
mũi,
sờ
đầu
mới
biết
rằng
Tôn
giả
đã
tịch!
Bà
liền
quỳ
dưới
sàn
phòng,
than
khóc,
nước
mắt,
nước
mũi
nghẹn
ngào.
-
Ôi!
Ông
con
trai
cao
quý
của
mẹ
đã
đi
rồi!
Ôi!
Ông
con
trai
suốt
đời
hiền
lành,
dịu
dàng,
nết
na,
mẫu
mực...
giờ
không
còn
nữa!
Trước
khi
mất,
mẹ
mới
biết
rằng
ông
là
người
cao
cả,
đức
lớn
hơn
cả
Phạm
Thiên!
Thế
nhưng
đã
muộn
rồi,
ông
con
ơi!
Gần
suốt
một
trăm
năm,
mẹ
đã
không
tạo
được,
không
tích
lũy
được
một
công
đức
nào
cả
trong
cái
ngôi
nhà
đồ
sộ
này
cả.
Mẹ
đã
không
biết
cung
kính,
cúng
dường
cho
hằng
trăm
Sa
môn,
hằng
ngàn
Sa
môn
chân
chánh
và
cao
thượng.
Mẹ
đã
không
xây
cất
được
một
tịnh
xá,
không
dâng
được
một
mảnh
đất,
chưa
thật
sự
phát
tâm
hoan
hỷ
dâng
một
chút
ít
vật
thực
cho
Ðức
Phật
và
Tăng
chúng.
Ôi!
Của
cải
chất
đầy
rương
mà
mẹ
chưa
có
một
chút
phước
báu
nào
cả
ông
con
ơi!
Bà
Sàrì
kể
lể
cho
đến
khi
mặt
trời
lên
cao.
Ba
vị
Trưởng
lão
A-La-Hán
ngồi
đại
định
ở
ba
góc
xung
quanh
nhục
thể
của
Tôn
giả.
Nhìn
sự
yên
tỉnh
ấy,
một
hồi,
tâm
bà
thanh
thản
hơn.
Chư
Tăng
lần
lượt
bước
vào
đảnh
lễ.
Tôn
giả
A-Nậu-Ðà-La
xuất
thiền,
khẽ
nói
nhỏ
vào
tai
bà
Sàrì
:
-
Không
nên
khóc
nữa,
thưa
Mẹ!
Con
Trai
của
Mẹ
đã
nhập
Niết
Bàn,
nghĩa
là
đã
đi
vào
chốn
an
vui
vĩnh
cửu,
từ
rày
không
còn
đính
một
tí
đau
khổ
nào
nữa,
dầu
chỉ
là
đầu
ngọn
cỏ
kusa!
Mẹ
hãy
tỉnh
táo,
lau
ráo
nước
mắt,
lo
hậu
sự
cho
Con
Trai
Mẹ,
với
tất
cả
tấm
lòng
của
mẹ,
rồi
mẹ
sẽ
cảm
thấy
yên
ổn
và
mát
mẻ
lạ
lùng!
Thưa
Mẹ!
Mẹ
chỉ
mất
đi
một
người
con
đức
hạnh,
nhưng
chúng
con
lại
mất
đi
cả
Một
Kho
Tàng
Pháp
Bảo,
mất
đi
một
Ngôi
Sao
Sáng
bên
cạnh
Ðức
Tôn
Sư;
mất
đi
một
người
Cha,
một
người
Mẹ,
một
người
Anh
Cả
trong
Giáo
Hội
và
Tăng
Ðoàn.
Chúng
con
mất
mát
lớn
hơn
cả
mẹ
nữa
đấy!
Mẹ
hãy
nhìn
xem
Chư
Tăng
kìa!
Anh
Trai
Trưởng
của
chúng
con
ra
đi,
cả
năm
trăm
đứa
con
kia
-
mới
chỉ
là
số
ít
thôi
-
đã
cảm
thấy
bơ
vơ
không
có
nơi
nương
tựa!
Nhưng
định
luật
là
vậy,
có
sinh
thì
có
diệt,
có
tụ
thì
có
tan!
Còn
vấn
đề
tạo
công
quả
thì
không
có
gì
phải
muộn
màng!
Chư
Tăng
còn
chầu
bên
linh
giác,
Ðức
Phật
còn
tại
thế,
Giáo
Hội
còn
trường
tồn.
Mẹ
hãy
chứng
tỏ
cho
các
thôn
làng
xung
quanh
đây
-
những
ngôi
làng
Bà
la
môn
kỳ
cựu
-
biết
rằng
mẹ
là
mẹ
của
bảy
vị
A-La-Hán
cao
cả,
mẹ
đã
đứng
vững
trong
Chánh
Pháp,
mẹ
có
Ðức
Tin
Bất
Ðộng
với
Tam
Bảo,
mẹ
đã
nếm
được
hương
vị
của
Ðạo
Bất
Diệt.
Thưa
Mẹ!
Những
lời
con
đã
mạo
muội
nói
ra
như
vậy,
mẹ
nghĩ
có
đúng
không?
Bà
Sàrì
gật
đầu
mạnh
mẽ:
-
Rất
đúng,
hoàn
toàn
đúng,
thưa
Tôn
giả!
Các
Ngài
và
ông
con
trai
của
tôi
nói
lời
nào
là
đúng
lời
ấy
mà
trước
đây
tôi
vì
quả
mê
muội
nên
không
thấy.
Hãy
cho
tôi
được
sám
hối
Ðức
Phật,
Ðức
Pháp,
Ðức
Tăng.
Bà
quỳ
xuống
đảnh
lễ,
cả
ba
vị
A-La-Hán
chứng
minh
cho
lời
sám
tội
ấy.
Sau
đó,
bà
Sàrì
rộng
tay
mở
kho
tàng,
lấy
ra
những
bao
vàng
lớn.
Thế
rồi
hằng
trăm
gia
nhân
chạy
tới
chạy
lui
xuôi
ngược.
Hằng
chục
Trưởng
lão
trong
thân
quyến
ăn
vận
nghiêm
trang
đến
nhà
theo
lời
mời
của
bà
Sàrì.
Hằng
trăm
thợ
thầy
danh
tiếng,
hằng
trăm
người
phụ
việc
tuân
lệnh
răm
rắp
theo
lời
chỉ
dẫn
của
bà.
Từng
núi
lương
thực
được
chở
đến.
Vật
liệu,
hương
liệu,
tràng
hoa,
vật
thơm,
vải
vóc...
ngựa
xe
nườm
nượp.
Gỗ
chiên
đàn,
gỗ
thơm
hương
vàng
cháy
theo
thuyền
trên
nguồn
tải
về.
Thế
là
chỉ
trong
ba
ngày,
một
ngôi
Nhà
Hội
Tế
được
dựng
ngay
chính
trung
tâm
làng
Nàlaka.
Tất
cả
cột
và
vòng
khung
toàn
bằng
gỗ
quý,
thếp
vàng,
thếp
bạc.
Chính
giữa
ngôi
Nhà
Hội
Tế
có
hai
mái
che
phủ
rộng
rãi,
có
bao
lơn,
có
trường
bản
được
khắc
chạm
tinh
vi
với
những
trụ
cột
cũng
được
bọc
vàng
bên
ngoài.
Tất
cả
khí
cụ
thờ
tế
hoặc
trang
hoàng
khác
cũng
bằng
vàng,
bằng
bạc.
Thật
là
tài
tổ
chức,
sự
khéo
léo
sắp
đặt,
chỉ
huy
của
bà
Sàrì
vẫn
còn
hiệu
năng,
đắc
dụng
như
thuở
nào!
Cả
mấy
làng
trầm
trồ
thán
phục
một
bà
lão
trăm
tuổi.
Chưa
thôi,
hằng
ngày,
gia
nhân
chăm
lo
vật
thực
đầy
đủ,
sung
mãn,
thượng
vị
cúng
dường
cho
năm
trăm
thầy
tỳ-khưu.
Hằng
ngày,
số
người
ăn,
cả
quan
khách,
thầy
thợ
và
gia
nhân
bao
giờ
cũng
trên
ngàn
người.
Một
mình
bà
Sàrì
quán
xuyến
tất
cả.
Ðến
ngày
thứ
tư,
quan
khách
đông
hơn,
và
Tôn
giả
A-Nậu-Ðà-La
nói
với
bà
Sàrì
là
rất
nhiều
Chư
Thiên
cũng
trà
trộn
xen
lẫn
vào
đấy
để
cùng
tham
dự.
Có
điều
hay
là
mặc
dầu
đã
ở
trong
hàng
ngũ
Chánh
Ðạo,
bà
Sàrì
vẫn
để
cho
các
trưởng
giáo
Bà
la
môn
và
quan
khách
tổ
chức
hội
tế
theo
truyền
thống,
tập
tục
của
dân
làng.
Khi
số
người
đông
đảo
ấy
đã
hành
lễ
suốt
mấy
ngày
theo
nghi
thức
tang
lễ
cổ
truyền
đã
xong,
bà
cho
dựng
ngay
một
dàn
hỏa
thiêu
cao
trọng
bằng
tất
cả
các
loại
gỗ
quý
nhất,
củi
đốt
cũng
bằng
gỗ
trầm
hương.
Nhục
thể
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
được
phủ
bằng
hàng
chục
loại
hoa
tươi,
hương
liệu
thơm
như
đinh
hương,
hồi
hương,
nước
hoa
ngát
ngào
đủ
loại,
và
được
tôn
trí
trên
cao.
Thế
rồi,
Chư
Tăng
đứng
vòng
quanh,
tụng
những
biến
kinh
về
Vô
Thường,
Khổ
Não,
Vô
Ngã.
Ba
vị
Trưởng
lão
A-La-Hán
cầm
những
bó
mồi
bằng
rễ
cây
Usìva
thơm
hương,
châm
lửa
đốt.
Lời
kinh
của
năm
trăm
người
đọc
quả
có
uy
lực
kinh
thiên
động
địa,
dào
dạt,
ùn
ùn
như
sóng
lượn
giữa
không
gian.
Lửa
bốc
cháy,
thơm
ngào
ngạt,
lan
xa
cả
mấy
ngôi
làng...
Trong
đêm
hỏa
thiêu
ấy,
có
mấy
ngàn
người
tham
dự
cùng
vô
số
Chư
Thiên
chứng
kiến.
Tôn
giả
A-Nậu-Ðà-La,
Ly-Bà-Ða
và
một
số
tỳ-khưu
cao
hạ
khác
thay
nhau
thuyết
pháp
không
nghỉ.
Khi
lửa
tàn
chỉ
mới
cuối
canh
hai,
Tôn
giả
Ly-Bà-Ða
và
A-Nậu-Ðà-La
lấy
những
thùng
nước
hoa
tưới
tắt
những
cục
than
âm
ỉ
khói.
Trưởng
lão
Cunda
đến
góp
nhặt
xá-lợi
vào
vuông
vải
lọc.
Bà
Sàrì
đưa
ra
một
cái
hộp
bằng
vàng
để
đựng
di
cốt
nhưng
Trưởng
lão
Cunda
nói:
-
Không,
Thưa
mẹ!
Chỉ
vuông
vải
lọc
của
thầy
tỳ-khưu
như
thế
này
là
đẹp
lắm
rồi.
Con
sẽ
đi
ngay,
kịp
thời
về
trình
báo
với
Ðức
Thế
Tôn.
Con
không
thể
lưu
lại
đêm,
hay
lưu
lại
một
giây
khắc
nào
nữa
cả.
Nói
xong,
Trưởng
lão
Cunda
sửa
lại
y
bát,
buộc
vuông
vải
lọc
chứa
đầy
xá-lợi,
đồng
thời
cầm
luôn
Y
Tăng-Già-Lê
và
Bình
Bát
-
là
di
vật
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
-
cấp
tốc
lên
đường.
Hội
chúng
trống
rỗng
Trưởng
lão
Cunda
hơn
năm
ngày
bộ
hành
cấp
tốc
mới
đến
được
Kỳ
Viên
tịnh
xá.
Không
nghỉ
ngơi,
Ngài
tìm
gặp
Tôn
giả
Ànanda,
đảnh
lễ,
rồi
ngồi
xuống
một
bên:
-
Thưa
Ngài!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
anh
trai
trưởng
của
con
đã
nhập
diệt
rồi.
Ðây
là
di
cốt,
đây
là
bình
bát
và
y
tăng-già
lê
của
Ngài.
Tôn
giả
Ànanda
lặng
ngắt
một
hồi
lâu,
thò
tay
sờ
vuông
vải
lọc,
sờ
y,
sờ
bát
rồi
nói
như
một
cái
máy.
-
Vâng,
thưa
Tôn
giả!
Chúng
ta
hãy
ra
mắt
Ðức
Tôn
Sư!
Thế
rồi
cả
hai
vị
đến
đảnh
lễ
Ðức
Ðạo
Sư.
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Tôn
giả
Cunda
vừa
từ
Nàlaka
đến
đây,
có
báo
với
đệ
tử
rằng
đại
huynh
trưởng
của
đệ
tử
là
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đã
nhập
Niết
Bàn
rồi.
Và
đây
là
di
vật
của
Con
Người
Cao
Cả
ấy!
Nói
thế
xong,
Tôn
giả
Ànanda
đôi
mắt
ứa
ra
hai
hàng
lệ,
nghẹn
ngào:
-
Khi
đệ
tử
nghe
tin
ấy,
tâm
tư
đệ
tử
trở
nên
bàng
hoàng
và
cơ
thể
cảm
nghe
như
yếu
ớt,
suy
nhược
đi.
Mọi
vật
chung
quanh
như
quay
cuồng,
mờ
nhạt.
Và
tâm
trí
của
đệ
tử
như
rơi
vào
trạng
thái
mơ
hồ,
mông
lung,
không
còn
phân
biệt
cái
gì
ra
cái
gì
nữa
cả.
Ôi!
Ðệ
tử
rất
đau
đớn!
Ðức
Phật
biết
tâm
tư
của
người
đệ
tử
giàu
xúc
cảm,
Ngài
cất
giọng
từ
hòa:
-
Này
Ànanda!
Sao
ông
lại
nói
như
vậy?
Xá-Lợi-Phất
nhập
diệt
có
lấy
đi
của
ông
phần
nào
giới
hoặc
định
hay
không?
Hay
Xá-Lợi-Phất
đã
mang
đi
tất
cả
trí
tuệ
và
giải
thoát
của
ông
mất
rồi?
-
Anh
Cả
của
đệ
tử
không
lấy
đi
cái
gì
cả.
Nhưng
Người
là
cố
vấn
trí
tuệ
cho
đệ
tử,
đã
giảng
giải
Pháp
Bảo
cho
đệ
tử
một
cách
trọn
vẹn,
rõ
ràng
và
chân
thực.
Người
đã
dẫn
dắt
hàng
ngàn
tỳ-khưu
vào
Thánh
Ðạo.
Những
huấn
pháp,
dụ
pháp
của
Tôn
giả
ấy
linh
động,
ngát
ngào,
mát
mẻ,
ấm
cúng
và
thâm
diệu
dường
bao!
Ôi!
Vĩnh
viễn
đệ
tử
không
còn
nghe
được
những
thời
pháp
đậm
đà,
sâu
sắc
và
thắm
thiết
kia
nữa!
Ðức
Phật
lại
phải
an
ủi,
dạy
bảo:
-
Này
Ànanda!
Ðừng
sầu
thương
thái
quá!
Như
Lai
biết
rõ
tình
cảm
của
ông
đối
với
Xá-Lợi-Phất,
nên
trong
buổi
tiễn
đưa,
Như
Lai
đã
cố
ý
không
cho
ông
gặp
mặt
là
vì
vậy.
Tất
cả
mọi
pháp
hữu
vi
nó
sinh
diệt
hoại
thành
ra
sao
ông
đã
biết
rồi.
Tất
cả
mọi
cái
gọi
là
yêu
thích,
yêu
mến,
luyến
thương...
chúng
tạo
ra
ràng
buộc,
đau
khổ
như
thế
nào
ông
cũng
biết
rồi.
Và
ông
còn
thuyết
pháp
rất
hay
về
điều
đó
nữa
là
khác.
Như
Lai
chỉ
nhắc
nhở
ông
một
điều
thôi:
"Hãy
tự
tạo
cho
mình
một
hòn
đảo
để
nương
tựa,
một
hòn
đảo
không
sinh
diệt
-
Bất
Tử,
một
hòn
đảo
thoát
ra
ngoài
mọi
định
luật
vô
thường,
một
hòn
đảo
ở
trên
mọi
trạng
thái
và
các
điều
kiện."
Ông
là
bậc
bác
học,
đa
văn,
quảng
tuệ,
Như
Lai
nói
ít
nhưng
ông
hiểu
nhiều!
Tôn
giả
Ànanda
cúi
đầu
ghi
nhận
nhưng
dòng
sóng
cảm
xúc
trong
tâm
tư
vẫn
cứ
tuôn
trào.
Thấy
vậy,
Ðức
Phật
đưa
Tôn
giả
Ànanda
vào
công
việc:
-
Hãy
tụ
tập
tất
cả
Tăng
chúng
trong
Kỳ
Viên
tịnh
xá
đến
ngay
Ðại
Giảng
Ðường
để
Như
Lai
nói
thêm
về
Người
Anh
Cả
của
họ.
*
*
*
Ðức
Thế
Tôn
ngồi
lên
Pháp
tòa,
phóng
hào
quang
sáu
màu
trộn
lẫn
từng
đôi
một,
duỗi
thẳng
cánh
tay
nhận
vuông
vải
lọc
đựng
di
cốt
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
đưa
lên
cao
rồi
đặt
vào
lòng
tay
trái,
nhìn
hội
chúng
Chư
Tăng
đầy
cả
Ðại
Giảng
Ðường
rồi
Ngài
nói:
-
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Ðây
là
di
cốt
có
màu
sắc
sáng
trắng
như
ngọc
trai
của
một
vị
tỳ-khưu
có
phẩm
hạnh
trinh
bạch
tựa
vỏ
ốc.
Ðấy
là
Anh
Cả
của
các
ngươi!
Ông
ấy
đã
nhập
diệt
rồi.
Và
đây
là
Y,
Bát
còn
lại!
Ðức
Thế
Tôn
đưa
tay
chỉ
Y,
Bát
nằm
bên
cạnh
Pháp
tòa,
mở
lời
tán
dương
công
đức:
-
Này
các
thầy!
Xá-Lợi-Phất
đã
tu
tập
rất
lâu,
kể
từ
khi
phát
nguyện
dưới
chân
Ðức
Phật
Anomadassi
đến
nay
với
thời
gian
không
thể
tính
được,
Ông
đã
tích
lũy
Ba-la-mật
như
cát
của
con
sông
Ðại
Hằng.
Quả
vị
mà
Ông
đạt
được
rất
gần
với
Như
Lai.
Là
một
tỳ-khưu
xứng
đáng
được
tứ
chúng
tôn
trọng
và
ngưỡng
mộ.
Trí
Tuệ
của
Ông
không
ai
bì
kịp.
Trí
Tuệ
ấy
sáng
suốt,
quảng
bác,
rực
chói
như
hàng
triệu
ngôi
sao
tụ
lại.
Ông
ấy
là
một
người
sống
đời
biết
đủ,
ít
ham
muốn,
điềm
đạm,
không
dính
bụi
trần,
ưa
tĩnh
cư,
ưa
tạo
sự
hòa
hợp
giữa
Tăng
chúng,
không
mệt
mỏi
trong
Phật
sự,
không
chán
nãn
trong
việc
giáo
huấn
môn
đồ,
là
người
bạn
khả
kính,
khả
ái
của
mọi
người.
Là
một
thiện
trí
thức
vĩ
đại.
Nầy
các
thầy
tỳ-khưu!
Từ
bỏ
một
gia
tài
không
thua
gì
gia
tài
của
trưởng
giả
Cấp
Cô
Ðộc,
Xá-Lợi-Phất
đã
nhẹ
nhàng
ra
đi
để
sống
đời
Sa
môn
vô
sản
bần
hàn.
Trải
qua
vô
lượng
kiếp
sống
đào
tạo
công
hạnh,
Ông
ấy
là
người
luôn
luôn
thân
cận
Như
Lai,
khi
là
thân
phụ,
khi
là
nội
tổ,
là
chú,
là
bác,
anh
em,
con
cái,
cháu
chắt
hoặc
bạn
của
Như
Lai.
Ông
ấy
kiên
định
như
đá
tảng,
khiêm
nhu
tựa
lụa
mềm,
kham
nhẫn
giống
đại
địa,
tĩnh
lặng
tợ
bể
sâu!
Ông
ấy
sống
đời
vô
hại
và
hữu
ích
cho
mọi
người.
Sống
với
bè
bạn,
người
thân,
môn
đệ
Ông
như
con
chúa
đàn
với
đôi
sừng
bằng
sắt
sẵn
sàng
bảo
vệ
và
ngăn
chặn
kẻ
ác,
điều
ác
không
cho
đến
gần.
Ông
ấy
còn
tự
ví
mình
như
một
người
Chiên-Ðà-La
thấp
kém
nhất
trong
xã
hội,
thế
nhưng
lại
là
một
Người
Cao
Cả
Nhất
trên
đời
này.
Ðức
Phật
một
lượt
nữa
lại
đưa
di
cốt
lên:
-
Nầy
các
thầy
tỳ-khưu!
Ðây
là
xá-lợi
của
vị
Tỳ-khưu
ấy,
có
sắc
trong
sáng
như
ngọc
trai,
là
vị
Thánh
Tăng
duy
nhất
khi
ra
đi
có
cuộc
tiễn
đưa
vĩ
đại,
quả
đất
phải
rung
động
và
sấm
gióng
đầy
uy
vũ
giữa
trời
cao!
Trong
trăm
ngàn
kiếp
sống
qua,
Ông
đã
biết
bao
lần
bức
xiềng
đời
sống
gia
đình.
Ðã
biết
bao
lần
Ông
khẳng
khái
chối
bỏ
ngọc
vàng,
tước
lộc,
thê
nhi
vì
lý
tưởng
vô
thượng
của
đời
mình.
Vị
Tỳ-khưu
ấy
giờ
đây
mãi
mãi
được
thế
gian
tôn
thờ.
Các
thầy
hãy
bước
theo
gót
chân
của
Xá-Lợi-Phất.
Một
gót
chân
mà
dù
ở
giữa
đô
thị
hay
giữa
rừng
sâu
cũng
không
làm
hại
đến
một
cọng
cỏ;
gót
chân
in
dấu
sự
tịch
lặng
và
vô
nhiễm
đến
muôn
đời!
Xá-Lợi-Phất
là
người
chiến
thắng
vĩ
đại!
Một
vị
Tỳ-khưu
phẩm
hạnh
trong
trắng
như
vỏ
ốc,
xứng
đáng
xây
dựng
một
bảo
tháp
để
Chư
Thiên
và
nhân
loại
cung
kính,
lễ
bái,
chiêm
ngưỡng,
dâng
đèn
hoa,
trầm
hương
để
tôn
kỉnh
đến
ngàn
sau.
Sau
khi
xá-lợi
của
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
được
chính
Ðức
Thế
Tôn
ca
ngợi
như
vậy,
tán
thán
như
vậy,
hai
hàng
cận
sự
nam
nữ,
vua
chúa,
đại
thần,
phú
hộ,
dân
chúng
quanh
thành
Xá-Vệ
hùn
góp
tiền
bạc,
của
cải
nhanh
chóng
kiến
tạo
một
bảo
tháp
để
tôn
trí
xá-lợi
của
Ngài,
trên
một
ngọn
đồi
cao,
sâu
trong
rừng
cây
của
hoàng
thân
Kỳ-Ðà.
Ðến
ngày,
Tứ
chúng
tổ
chức
một
cuộc
rước
xá-lợi
trang
nghiêm
và
trọng
thể.
Ðức
Thế
Tôn
đi
trước
với
xá-lợi,
với
kiệu,
với
lọng
và
tràng
hoa;
sau
là
một
đoàn
Chư
Tăng
cùng
cận
sự
nam
nữ
cả
hàng
ngàn
người.
Xúc
động
nhất
là
Tôn
giả
Ànanda,
bị
bỏ
lại
đằng
sau
xa,
khóc
lóc,
than
thở
với
nước
mắt
dầm
dề,
như
người
vô
hồn,
lặp
đi
lặp
lại
mãi:
"-
Ôi!
Người
bạn
cao
thượng
của
tôi
đã
đi
rồi
thì
đối
với
tôi,
cuộc
đời
sẽ
chìm
sâu
trong
đêm
đen
lạnh
lẽo!"
Tôn
trí
xá-lợi
trên
bảo
tháp
xong,
Ðức
Phật
bảo
Tôn
giả
Ànanda:
-
Thấy
di
vật,
ông
lại
tưởng
nhớ
Ông
Anh
Cả!
Vậy
hãy
tập
hợp
Chư
Tăng,
hãy
cùng
với
Như
Lai
về
Vương-Xá.
Như
Lai
cũng
không
muốn
ở
lại
đây
nữa!
Ngay
ngày
hôm
sau,
là
một
cuộc
lên
đường
vĩ
đại
từ
nước
Kosala,
dọc
theo
sông
Hằng
về
nước
Ma-Kiệt-Ðà.
Ròng
rã
ngày
đi,
đêm
nghỉ,
Ðức
Phật
khi
ấy
đã
quá
già
yếu
nhưng
Ngài
vẫn
chậm
rãi,
kiên
trì,
dẽo
dai
trên
đường
trường.
Vì
bộ
hành
đông
nên
gần
một
tháng
mới
về
đến
Trúc
Lâm
tịnh
xá.
Tôn
giả
Ànanda
báo
tin:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Tôn
giả
Ðại
Mục-Kiền-Liên
cũng
nhập
diệt
rồi.
-
Như
Lai
đã
biết!
Thấy
Ànanda
ngẩn
ngơ
như
người
mất
hồn,
Ðức
Phật
ân
cần
nói:
-
Tại
Kỳ
Viên
tịnh
xá,
khi
đang
xây
bảo
tháp
cho
Xá-Lợi-Phất,
Mục-Kiền-Liên
đã
có
đến
đảnh
lễ
và
xin
phép
Như
Lai
rồi.
-
Vậy
thì
xá-lợi
của
Tôn
giả
hiện
ở
đâu?
-
Ðã
có
Ca-Diếp
làm
việc
ấy.
Lát
sau,
Tôn
giả
Ðại
Ca-Diếp
mang
vuông
vải
lọc
đựng
di
cốt,
Y
và
Bát
của
Tôn
giả
Ðại
Mục-Kiền-Liên
đến
đảnh
lễ
bên
chân
Phật.
Tôn
giả
Ðại
Ca-Diếp
giải
thích
cho
Tôn
giả
Ànanda
nghe:
-
Tôn
giả
Mục-Kiền-Liên
đã
ba
lần
dùng
thần
thông
để
tránh
bọn
giết
người,
nhưng
sau
đó
Tôn
giả
nghĩ
rằng
không
nên
trốn
tránh
nghiệp.
Vậy
là
Tôn
giả
cứ
ngồi
bất
động
cho
bọn
kia
đâm,
chém,
chặt
ra
từng
khúc
rồi
quăng
vào
bụi
tre.
Khi
bọn
giết
người
đi
rồi,
Tôn
giả
hóa
hiện
thần
thông,
hoàn
thân
lại
như
cũ,
bay
về
Kỳ
Viên
tịnh
xá
và
xin
Ðức
Thế
Tôn
để
Niết
Bàn!
-
Này
Ðại
Tôn
giả!
Tôn
giả
Mục-Kiền-Liên
gây
nhân
gì
mà
quả
báo
khủng
khiếp
vậy?
-
Nói
ngắn
gọn
là
quả
báo
bất
hiếu
với
mẹ
cha!
Ðức
Thế
Tôn
nói
với
hai
vị
Tôn
giả:
-
Cả
hai
ông
nên
bố
cáo
chuyện
này
với
Chư
Tăng,
cận
sự
nam
nữ
hai
hàng,
phải
xây
một
bảo
tháp
như
của
Xá-Lợi-Phất
để
tôn
trí
xá-lợi
cho
Mục-Kiền-Liên.
Các
ông
hãy
đi
đi.
Như
Lai
rất
mệt.
Như
Lai
muốn
nghỉ
ngơi
bảy
ngày.
Ðừng
cho
ai
quấy
rầy
Như
Lai!
Thế
là
Ðức
Thế
Tôn
đóng
hương
phòng,
an
trú
vào
diệt
thọ
tưởng
định
-
là
chỗ
tĩnh
cư
của
bậc
Thánh.
Khi
xuất
định
thì
bảo
tháp
đã
xây
xong.
Cuộc
rước
xá-lợi
cũng
trọng
thể,
huy
hoàng.
Ðức
Thế
Tôn
tự
tay
đặt
di
cốt
của
người
học
trò
yêu
thứ
hai
vào
bảo
tháp.
Ba
hôm
sau,
Ðức
Thế
Tôn
lại
rời
Trúc
Lâm
tịnh
xá
cùng
với
Tăng
chúng
lên
đường.
Ngài
lại
đi
ngược
dòng
sông
Hằng
lên
đến
xứ
Vajji,
tại
Ukkacala.
Ở
đây,
tạiû
một
bãi
cỏ
trống,
với
đại
chúng
vây
quanh,
Ðức
Thế
Tôn
nhìn
ra
sông
Hằng
sóng
vỗ
cuồn
cuộn,
rồi
nói:
-
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Các
thầy
có
thấy
không?
Sông
Ðại
Hằng
nước
lũ
cuồn
cuộn,
nó
sẽ
cuốn
theo
mình
bao
nhiêu
rác
bèo,
đất
cát
về
với
biển
cả.
Giòng
sông
Sinh
Tử
cũng
vậy,
nó
cuốn
đi
tất
thảy
chúng
hữu
tình,
dẫu
là
Chư
Thiên,
Phạm
Vương,
Ma
quân
hay
vua
chúa,
chúng
sanh
vạn
loài.
Giờ
đây
nó
đã
cuốn
đi
hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
ưu
tú
của
Như
Lai!
Các
ông
có
biết
không?
Các
Bậc
Thế
Tôn,
các
Ðấng
Toàn
Giác
từ
ngàn
xưa,
ai
cũng
có
hai
ngôi
sao
xuất
chúng
bên
cạnh
mình,
và
bao
giờ
họ
cũng
ra
đi
trước
Ðấng
Ðạo
Sư.
Hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
ấy
bao
giờ
cũng
được
Tứ
chúng
kính
yêu,
nể
phục
do
trí
tuệ,
công
hạnh
cùng
phước
báu
Ba-la-mật
của
họ.
Hai
vị
Ðại
Ðệ
Tử
ấy
là
những
người
hoàn
toàn
về
mọi
phương
diện.
Xá-Lợi-Phất
và
Mục-Kiền-Liên
là
hai
nhân
cách
ưu
việt
khó
tìm
thấy,
không
những
các
ông
thương
tiếc
mà
Như
Lai
cũng
thương
tiếc.
Nhưng
Như
Lai
và
các
ông
đã
thấy
rõ,
đã
an
trú
vững
chắc
vào
Tâm
Bất
Ðộng,
vào
Tuệ
Bất
Ðộng
khi
nhìn
ngắm
các
pháp
hữu
vi
vốn
chịu
tác
động
bởi
những
định
luật
tất
yếu.
Nhờ
thế
mới
nói
đến
giải
thoát,
nhờ
thế
mới
nói
đến
chấm
dứt
Tử
Sinh.
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Các
ông
hãy
nỗ
lực
tinh
cần,
kiên
định
không
mệt
mỏi
để
bước
lên
Con
Ðường.
Người
bước
lên
trước
dẫn
người
bước
lên
sau,
phải
lên
đến
đỉnh
đồi
cao
Bất
Tử
ấy
để
ca
bài
ca
Chiến
Thắng
và
Tự
Do!
Ðưa
mắt
lặng
lẽ
nhìn
đại
chúng,
Ðức
Thế
Tôn
nói
thầm
trong
tâm
rằng:
"-
Khi
Xá-Lợi-Phất
và
Mục-Kiền-Liên
đi
rồi
-
thì
đối
với
Như
Lai
-
Hội
chúng
này
hoàn
toàn
trống
rỗng!"
Khởi
viết
từ
năm
1980
Hoàn
thành
năm
1995.
-ooOoo-
Cảm
Bạt
Trong
trường
miên
nỗi
nhớ
gió
vô
tận
rì
rào
cát
hồng,
đốm
tía
lả
tả
bay
sóng
tâm
tư
dạt
dào
mây,
vén
ra
trên
khung
xanh
bóng
người
lừng
lửng
từ
sát-na
mà
hiển
hiện
vô
cùng
Tôi
đã
khóc
thương
tuyết
đổ
trên
sông
dài
thương
mù
sa
trong
bóng
khói
Người
ra
đi
không
dấu
chân
mà
nở
hoa
vạn
đại
hiện
giữa
Kinh
Thư
như
máu
huyết
như
tủy
xương
như
óc
tim
từ
lá
cỏ
thảo
nguyên
trù
mật
Ôi!
Thánh
hạnh
như
chu
sa
khắc
trên
trán
ngày
trán
đêm
giữa
điêu
linh
và
nỗi
chết
Tôi
nhặt
làn
hương
tôi
nhặt
hạt
sương
tôi
nhặt
ánh
sao
để
nói
rằng
hư
vô
còn
mãi
loảng
xoảng
trong
giấc
mơ
của
anh
bập
bùng
theo
tóc
bạc
của
tôi
xác
bướm
đêm
và
phù
du
trên
lửa
Ôi!
đứng
giữa
đồi
cao
này
dế
trắng
ca
thiên
thâu
hoang
vu
từng
hạt
bụi
thế
gian
không
bóng
người
sông
dài
còn
lam
lũ
lũng
thấp
mãi
bò
quanh
thiên
đường
kia
đã
cũ
bước
chân
này
từ
đỉnh
Hy-ma
hơi
thở
này
tự
tại
mở
ra...
-Hết-
--- o0o ---
Mục
lục - [01] -
[02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục