-
Dạ
đầy
đủ.
Thấy
hội
chúng
thảy
đều
im
lặng,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
khích
lệ,
sách
tấn:
-
Thưa
chư
hiền!
Không
phải
là
tôi
đã
đòi
hỏi
quá
nhiều,
mà
thật
đúng
là
vậy,
có
mười
ba
pháp,
vị
tỳ-khưu
sống
ở
rừng
núi
cần
phải
được
học
hỏi,
y
chỉ,
thực
hành,
thành
tựu.
Khi
mà
có
được
mười
ba
pháp
ấy
thì
chư
hiền
đi
bất
cứ
đâu,
đồng
đạo
cũng
cung
kính,
ái
mộ,
mà
cận
sự
nam
nữ
cũng
thảy
đều
cung
kính,
ái
mộ.
Chư
hiền
đến
đâu
cũng
là
bóng
mát
nương
tựa
cho
Chư
Thiên
và
loài
người.
Vậy
chư
hiền
hãy
cố
gắng,
kham
nhẫn
tấn
tu,
hãy
thương
yêu
nhau,
đùm
bọc
nhau,
nhắc
nhở
nhau
để
tất
cả
cùng
thành
đạt
cứu
cánh
tối
thượng
của
Sa
môn
hạnh.
Là
mục
đích
xán
lạn
và
cao
cả,
xứng
đáng
cho
những
thiện
gia
nam
tử
xuất
gia
cần
cầu
an
ổn
mọi
ách
phược.
Chư
Tăng
ở
trong
Rừng
Ðầu
Ðà
thảy
đều
hoan
hỷ,
họ
đã
nghe
một
thời
pháp
chưa
từng
được
nghe:
trọn
vẹn
và
toàn
hảo.
Họ
vô
cùng
tri
ân,
cung
kính
tiễn
đưa
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
lên
đường.
*
*
*
Dừng
ở
ngã
ba
vào
Vương-Xá
thành,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
suy
nghĩ:
"Ta
có
nên
vào
kinh
đô
xứ
Ma-Kiệt-Ðà
chăng?
Trong
thân
bằng,
quyến
thuộc
ở
đây,
biết
ai
còn
có
duyên
để
dẫn
họ
vào
Chánh
Pháp
chăng?"
Rồi
Ngài
tự
trả
lời:
"-
Ta
có
một
ông
cậu
có
duyên
với
Chánh
Pháp.
Ông
cậu
này
thường
cúng
dường
đến
các
đạo
sĩ
lõa
thể,
và
ông
ta
nghĩ
rằng,
làm
như
vậy
là
thực
hành
con
đường
cộng
trú
với
phạm
thể.
Ông
cậu
này,
ta
đã
dẫn
đến
Ðức
Ðạo
Sư,
và
Ðức
Thế
Tôn
đã
đặt
ông
ta
vào
đức
tin
Tam
Bảo.
Ta
cũng
có
một
đứa
cháu
trai,
tháng
ngày
chuyên
giết
thú
và
chăm
sóc
ngọn
lửa
tế
thần.
Y
làm
như
vậy
và
tin
tưởng
rằng
đấy
là
con
đường
dẫn
đến
cõi
Phạm
Thiên.
Ta
đã
dẫn
cháu
ta
đến
bên
chân
Ðức
Ðạo
Sư
và
y
đã
có
đức
tin
Tam
Bảo
từ
đấy.
Ta
cũng
có
một
người
bạn
hữu
duyên.
Y
theo
ngoại
đạo,
hằng
ngày
tốn
tiền
bạc
mua
súc
vật,
giết
súc
vật
để
cúng
dường
thần
lửa.
Người
bạn
này
cũng
đã
được
Ðức
Tôn
Sư
đặt
y
vào
đức
tin
chơn
chánh
rồi.
Vậy
chẳng
còn
ai
hữu
duyên
ở
Vương-Xá
thành
này
nữa
mà
thăm
viếng,
ngoại
trừ
gia
đình,
và
người
hiện
thời
mà
ta
phải
quan
tâm
là
Revata!"
Nghĩ
thế
xong,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
cùng
với
đồ
chúng
bộ
hành
trở
lại
Kỳ
Viên
tịnh
xá.
*
*
*
Bà
Sàrì
chống
gậy
nhìn
theo
hình
bóng
người
con
trai
thân
yêu,
mắt
già
hoen
lệ.
Cả
một
cơ
ngơi
trù
phú,
thạnh
mãn,
đông
vui
mà
bây
giờ
trở
nên
trống
không.
Cả
hàng
trăm
gia
nô,
kẻ
hầu
người
hạ
mà
lúc
nào
bà
cũng
cảm
thấy
hoang
vắng.
Tiền
rừng
bạc
bể,
sơn
hào
hải
vị
cũng
trở
nên
vô
ích,
nhạt
nhẽo...
Revata
ra
đứng
bên
cạnh,
nắm
tay
bà,
đôi
mắt
nó
cũng
nhìn
ra
hướng
xa
xăm.
Ðộng
tâm,
bà
Sàrì
nghĩ:
"-
Hay
là
cái
giọt
máu
cuối
cùng
này
cũng
không
muốn
nối
truyền
tông
hệ?
Nó
nhìn
anh
trai
trưởng
của
nó
với
đôi
mắt
đầy
khâm
phục
và
tôn
kính!
Nó
đã
cãi
lại
ta,
bênh
vực
anh
nó,
và
cảm
mến
cả
lũ
Sa
môn
đầu
trọc
nữa!
Thôi
phải
rồi,
nguy
rồi!
Ta
phải
cứu
con
trai
út
của
ta!
Ta
phải
cứu
cho
cả
dòng
họ
Vaganta!
Phải
cưới
vợ
cho
nó
thôi!
Revata
bảy
tuổi,
ta
sẽ
cưới
cho
nó
một
cô
gái
chừng
mười
bốn
mười
lăm
tuổi,
và
cô
gái
ấy
sẽ
thay
ta
kềm
kẹp
nó,
ngăn
giữ
nó,
không
cho
nó
có
ý
nghĩ
ngông
cuồng
chạy
theo
bọn
không
cửa
không
nhà!
Gia
sản
phải
có
người
gìn
giữ,
huyết
thống
phải
có
người
kế
thừa!"
Nghĩ
là
làm
ngay.
Ngày
hôm
sau,
bà
cho
mời
mấy
người
trưởng
thượng
trong
quyến
thuộc,
trình
bày
lý
do,
sao
đó,
nhờ
họ
dò
hỏi
ở
những
gia
đình
cùng
tập
cấp
và
vai
vế,
cùng
danh
vọng
và
gia
sản.
Một
cô
gái
mười
bốn
tuổi
xinh
đẹp
được
tìm
ra.
Lễ
dạm
hỏi
được
tiến
hành
nhanh
chóng.
Gia
đình
bà
Sàrì
giàu
có
nên
không
cần
của
hồi
môn
của
cô
gái.
Revata
còn
bé
quá
nên
không
biết
gì.
Ðến
ngày
cử
hành
hôn
lễ,
cậu
bé
được
mặc
trang
phục
xinh
đẹp,
mang
đồ
trang
sức
quý
giá,
cùng
với
hàng
trăm
tùy
tùng
bước
lên
những
cỗ
xe
sang
trọng
đi
đến
nhà
gái.
Revata
được
người
ta
cho
biết
là
hôm
nay
cậu
cưới
vợ,
và
cô
gái
kia
sẽ
ăn
ở
với
cậu
trọn
đời.
Ðến
đây
thì
cậu
đã
hiểu
tuy
còn
rất
mơ
hồ.
Thân
bằng
quyến
thuộc
của
hai
họ
tề
tựu
đông
đủ.
Cờ,
đèn,
hoa
và
màu
sắc
chỗ
này
chỗ
kia
làm
cậu
ta
hoa
mắt.
Ðến
giờ
lành,
giờ
tốt,
người
ta
cử
hành
lễ
rước
dâu.
Cậu
đứng
bên
một
cô
gái
cao
hơn
cậu
cả
một
cái
đầu
-
mặt
được
trùm
kín
bởi
một
chiếc
khăn
mỏng
-
không
thấy
mặt
mũi
cô
gái
ra
sao,
chỉ
nghe
người
ta
nói
là
đẹp
lắm!
Vị
Trưởng
lão
chủ
hôn,
đặt
tay
trong
bát
nước,
rảy
nước
rồi
công
bố
phúc
lành:
"-
Cầu
cho
các
con
trăm
năm
tơ
hồng
thắm
thiết.
Cầu
cho
các
con
được
phúc
thọ
khang
ninh
như
bà
ngoại
của
cô
dâu
vậy."
Sau
lời
cầu
chúc
tốt
đẹp
của
hai
họ,
Revata
tự
nghĩ:
"Bà
ngoại
của
nàng
là
ai
vậy?"
Khi
được
biết
rằng,
đấy
là
một
cụ
bà
sống
một
trăm
hai
mươi
tuổi,
răng
rụng,
tóc
bạc,
da
nhăn
đầy
những
vết
đồi
mồi,
lưng
còng
như
một
cái
kèo
uốn
cong
hình
chữ
U...!
Revata
bèn
thăm
hỏi
người
hầu
thân
tín:
"Này,
cô
dâu
xinh
đẹp
trẻ
trung
của
tôi,
khi
già
thì
trông
cũng
giống
như
bà
ngoại
của
nàng
chăng?"
Người
ta
đáp:
"Ðấy
là
điều
dĩ
nhiên.
Bệnh,
già,
chết
là
định
luật
cậu
ạ,
chẳng
ai
tránh
thoát
được
đâu!"
Khi
sự
thật
đã
được
xác
nhận,
đã
được
thấy
rõ,
Revata
kinh
hãi,
tự
nghĩ:
"-
Ðấy
có
lẽ
là
sự
thật
mà
các
anh
trai
của
ta
đã
nhận
thức
nên
họ
đã
từ
bỏ
gia
đình
để
làm
những
vị
Sa
môn.
Vậy
ngay
bây
giờ
ta
phải
tìm
cách,
lập
kế
mà
trốn
đi
kẻo
không
còn
kịp
nữa.
Ta
phải
xuất
gia!"
Thế
rồi
trên
đường
trở
về
cùng
với
cô
dâu
trên
chiếc
xe
hoa
sực
nức
mùi
hương,
Revata
chợt
la
lên:
-
Hãy
dừng
xe
lại
một
chút.
Tôi
bị
đau
bụng!
Revata
bước
ra
khỏi
xe,
tất
tả
đi
vào
một
đám
cây
rậm
rạp,
một
lát,
cậu
chậm
rãi
trở
lại.
Lần
thứ
hai,
lần
thứ
ba
Revata
cũng
viện
cớ
như
vậy.
Lần
thứ
tư,
khi
còn
cách
nhà
không
bao
xa,
Revata
nói
một
cách
rất
tự
nhiên:
-
Rõ
là
cái
bụng
nó
đang
hành
hạ
tôi.
Nhà
cũng
sắp
đến
rồi,
vậy
quý
vị
cứ
chầm
chậm
cho
xe
đi
trước,
tôi
sẽ
theo
kịp
ngay
tức
khắc.
Không
ai
nghi
ngờ
gì
cả,
họ
đánh
xe
đi.
Revata
đi
vào
một
đám
cây
khuất
bóng,
rồi
cậu
co
giò
chạy
một
mạch
vào
hướng
Tây
khu
rừng.
Trời
gần
tối,
đói
meo,
mệt
lã,
cậu
tìm
ra
ngôi
Rừng
Ðầu
Ðà,
nơi
có
ba
mươi
vị
tỳ-khưu
mà
trước
đây
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đã
dặn
dò.
Gặp
họ,
Revata
đảnh
lễ:
-
Thưa
Chư
Ðại
Ðức!
Hãy
cho
con
xuất
gia,
hãy
thâu
nhận
con
vào
Tăng
chúng.
-
Này
cậu
bé!
Một
vị
Trưởng
lão
nói
-
với
những
trang
sức
quý
giá
và
với
những
y
phục
cao
sang,
đẹp
đẽ
như
vậy,
không
biết
cậu
bé
là
con
vua
hay
cháu
chúa
làm
sao
chúng
ta
dám
nhận
vào
Tăng
đoàn
này,
nơi
những
Sa
môn
sống
đời
ẩn
cư
khổ
hạnh?
-
Bạch
Ngài,
con
là
em
trai
út
của
Upatissa.
-
Upatissa
là
ai?
-
Bạch
Ngài!
Upatissa
là
tên
của
anh
trai
con
thuở
còn
là
gia
chủ.
Từ
khi
xuất
gia
đến
nay,
anh
trai
con
có
tên
là
Xá-Lợi-Phất!
Các
vị
Trưởng
lão,
Ðại
Ðức,
thất
kinh
cùng
đứng
đậy:
-
Sao?
Ðúng
là
em
trai
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
đấy
chứ?
-
Dạ
đúng
vậy!
Anh
trai
con
là
Xá-Lợi-Phất,
xuất
thân
trong
gia
đình
trưởng
giáo
Bà
la
môn,
dòng
họ
Vaganta
con
bà
Sàrì.
Một
ngôi
làng
phía
Ðông,
cách
đây
gần
một
ngày
đường.
-
Ðúng
rồi,
không
hoài
nghi
gì
nữa!
Này
cậu
bé!
Trưởng
lão
Xá-Lợi-Phất
có
dặn
bảo
chúng
tôi,
chờ
đợi
cậu
và
làm
lễ
xuất
gia
cho
cậu.
Ngài
là
anh
cả
của
chúng
tôi,
là
thầy
của
chúng
tôi,
là
cái
mặt
trời,
mặt
trăng
mà
chúng
tôi
hằng
ngưỡng
mộ!
Thế
rồi,
Revata
được
cởi
ra
những
y
phục
và
tư
trang,
mặc
vào
mảnh
y
của
người
khất
sĩ,
làm
lễ
cạo
tóc
và
xuất
gia.
Một
vị
tỳ-khưu
trong
Rừng
Ðầu
Ðà
bộ
hành
về
Kỳ
Viên
tịnh
xá
báo
lại
sự
việc
cho
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
nghe.
Ngài
muốn
đi
thăm
em,
nhưng
lần
thứ
nhất,
lần
thứ
hai
Ðức
Thế
Tôn
đều
nói:
-
Này
Xá-Lợi-Phất!
Bây
giờ
là
chưa
phải
thời!
Hãy
kham
nhẫn!
Trong
lúc
ấy,
sa-di
Revata
tự
nghĩ:
"
Nếu
ta
tiếp
tục
trú
ngụ
ở
đây,
dầu
chỉ
một
ngày
thôi,
thì
trước
sau
gì
gia
đình
cũng
tìm
thấy."
Bèn
xin
đề
mục
thiền
quán
từ
vị
Trưởng
lão
rồi
mang
y
và
bát,
Revata
khởi
sự
một
chuyến
du
hành
rất
xa,
ba
mươi
dặm
đường,
một
mình
vào
trú
trong
khu
rừng
xiêm
gai.
Revata
nhập
hạ
ở
đây
trong
ba
tháng
mùa
mưa,
Revata
thành
tựu
được
mục
đích
của
Sa
môn
hạnh
cùng
với
những
thắng
trí
của
bậc
thượng
nhân!
Hôm
ấy,
Ðức
Thế
Tôn
nói
với
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất:
-
Bây
giờ
là
phải
thời,
Như
Lai
sẽ
cùng
ông
đi
thăm
sa-di
Revata.
Ðại
chúng
hay
tin,
chư
phàm
Tăng
không
ngớt
bàn
tán,
cho
rằng
Ðức
Thế
Tôn
thiên
vị
vì
Revata
là
em
trai
của
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp.
Họ
nói:
-
Chúng
ta
hãy
xem!
Một
chú
sa-di
bảy
tuổi,
lại
ở
cách
xa
biết
bao
dặm
đường,
thế
mà
Ðức
Thế
Tôn
phải
đích
thân
đi
thăm
viếng,
hẳn
là
một
sự
kiện
hy
hữu!
Biết
được
tâm
ý
của
một
số
tỳ-khưu
như
vậy,
nhưng
Ðức
Thế
Tôn
không
nói
gì,
Ngài
bảo
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
tập
hợp
đại
chúng
rồi
lên
đường.
Ðến
một
ngã
tư,
Trưởng
lão
Ànanda
thưa
rằng:
-
Có
hai
con
đường
dẫn
đến
rừng
xiêm
gai
của
sa-di
Revata.
Con
đường
tốt
được
bảo
vệ,
có
dân
cư
và
nhà
cửa
đông
đúc,
dài
sáu
mươi
do-tuần.
Một
con
đường
xấu,
không
được
ai
bảo
vệ,
nhiều
phi
nhân
và
ác
thú,
hoang
vắng
người
và
nhà
cửa,
nhưng
rất
ngắn,
chỉ
có
ba
mươi
do-tuần.
Vậy
chúng
ta
đi
con
đường
nào,
bạch
Ðức
Thế
Tôn?
Ðức
Phật
hỏi
Ngài
thị
giả:
-
Có
Sìvali
đi
cùng
đấy
không,
Ànanda?
-
Thưa
có,
có
Trưởng
lão
Sìvali
trong
số
năm
trăm
tỳ-khưu.
-
Vậy
chúng
ta
đi
con
đường
ngắn.
Tôn
giả
Ànanda
băn
khoăn:
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn!
Con
đường
này
thật
không
dễ
dàng
khất
thực
cho
một
hội
chúng
đông
đúc!
-
Này
Ànanda!
Ðức
Phật
nói
-
ông
đừng
nên
quá
lo
xa
như
vậy,
sẽ
có
nhân,
duyên,
quả
nó
làm
việc.
Con
đường
ngắn
thật
hiểm
trở,
cheo
leo,
vất
vả.
Nhưng
ngạc
nhiên
làm
sao,
con
đường
ấy
hôm
nay
lại
bằng
phẳng,
phong
quang!
Và
cứ
cách
một
do-tuần
là
có
những
căn
nhà
nghỉ
to,
rộng,
thoáng
mát.
Nơi
những
cằn
nhà
nghỉ
đầu
tiên,
có
những
cư
dân
không
biết
ở
đâu
xuất
hiện,
ăn
mặc
sang
trọng,
mang
những
mâm
vật
thực
sang
trọng,
tỏa
ngát
mùi
hương
đi
tìm
Trưởng
lão
Sìvali
và
dâng
cúng
vật
thực
cho
vị
ấy.
Trưởng
lão
Sìvali
lại
bảo
họ
dâng
cúng
đến
Ðức
Thế
Tôn
và
Tăng
chúng.
Suốt
ba
mươi
do-tuần,
Bậc
Ðạo
Sư
và
đại
chúng
được
nghỉ
ngơi
và
thọ
dụng
vật
thực
kỳ
lạ
như
vậy.
Ðến
khu
rừng
xiêm
gai,
sa-di
Revata
trang
nghiêm,
tề
chỉnh
ra
đảnh
lễ
Ðức
Thế
Tôn
và
Tăng
chúng.
Mọi
người
đưa
mắt
nhìn
quanh,
chẳng
còn
thấy
đâu
là
khu
rừng
già
đầy
gai
góc
và
hoang
dã
nữa.
Kia
là
hương
phòng
dành
cho
Ðức
Ðạo
Sư
đẹp
đẽ
như
cung
điện
của
cõi
trời.
Rải
rác
cả
mấy
khu
rừng
là
năm
trăm
chỗ
ngụ
có
tháp
nhọn,
mỗi
chỗ
ở
trang
trọng
như
vậy
được
dành
cho
một
vị
tỳ-khưu!
Ngoài
ra
có
năm
trăm
con
đường
đi
kinh
hành
có
mái
che
xanh
mát
bởi
dây
leo
và
hoa
nở;
lại
có
cả
năm
trăm
khu
vực
dành
cho
ban
ngày
và
ban
đêm...
Chư
Tăng
không
ngớt
bàn
tán,
chỉ
chỏ.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
ân
cần
nắm
tay
sa-di
Revata:
-
Ta
hoàn
toàn
mãn
nguyện,
em
có
biết
không,
Revata?
Revata
kính
cẩn
nắm
tay
anh,
và
biết
rằng,
mọi
nhân,
mọi
duyên
hôm
nay
mà
được
chín
muồi
đều
do
nhờ
ân
đức
của
người
anh
trai
cao
quý
này.
Tại
đây,
Ðức
Thế
Tôn
ở
lại
một
tháng
để
giáo
giới
Chư
Tăng.
Ngài
tán
thán
hạnh
độc
cư,
thiền
định,
tán
thán
những
nỗ
lực
tấn
tu
phạm
hạnh
của
Revata,
khuyên
Chư
Tăng
nên
lấy
đó
làm
gương,
làm
cái
đích
để
tiến
hóa.
Trong
thời
gian
ở
đây,
Ðức
Phật
và
Tăng
chúng
được
số
dân
cư
xa
lạ
dâng
cúng
vật
thực
đầy
đủ.
Trước
khi
rời
khu
rừng
xiêm
gai,
Ðức
Thế
Tôn
đã
xóa
tan
mọi
nghi
hoặc
trong
tâm
của
đại
chúng:
-
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Suốt
ba
mươi
do-tuần
và
cả
thời
gian
một
tháng
ở
đây,
Như
Lai
và
các
thầy
được
dâng
cúng
vật
thực
thượng
vị
đều
do
nhờ
phước
báu
của
một
người:
đấy
là
tỳ-khưu
Sìvali!
Sự
kiện
hy
hữu
ấy
các
thầy
phải
thấy
rõ
để
tăng
trưởng
đức
tin
chơn
chánh
vào
Giáo
Pháp!
Chư
Tăng
im
lặng,
họ
đã
hiểu
lý
do
cuộc
lên
đường
xa
xôi
của
Ðức
Phật.
-
Bạch
Ðức
Thế
Tôn
-
một
vị
hỏi
-
do
nhân
gì,
do
duyên
gì
mà
Trưởng
lão
Sìvali
có
phước
báu
thù
thắng
như
vậy?
Ðức
Phật
lại
phải
vén
bức
màn
quá
khứ
đã
bị
che
lấp:
-
Này
các
tỳ-khưu!
Cách
đây
chín
mươi
mốt
đại
kiếp,
vào
thời
Ðức
Phật
Tì-Bà-Thi
(Vipassi),
tỳ-khưu
Sìvali
là
một
nông
dân
nghèo.
Hôm
kia,
y
lấy
được
một
ổ
mật
ong
tươi.
Ôi
mật
ong
ấy
trị
giá
chỉ
có
mấy
xu
nhưng
người
ta
trả
giá
mua
đến
một
ngàn
đồng
tiền
vàng.
Khi
biết
rằng,
họ
mua
là
để
cúng
dường,
người
nông
dân
ấy
đã
không
bán
để
lấy
tiền
mà
phát
tâm
hoan
hỷ
hùn
phước.
Y
đã
cúng
dường
mật
ong
đến
Ðức
Phật
Tì-Bà-Thi
và
Tăng
chúng
sáu
mươi
tám
ngàn
vị.
Do
nhân
ấy,
do
duyên
ấy
mà
nhiều
đời
kiếp
cho
đến
hôm
nay,
Sìvali
bao
giờ
cũng
sung
mãn
vật
thực,
trong
Giáo
Hội
không
ai
bằng
được,
kể
cả
Nhu
Lai.
Sau
này,
khi
các
thầy
bộ
hành
qua
các
làng
mạc
xa
xôi,
gặp
lúc
đói
kém,
mất
mùa
-
hãy
tháp
tùng
với
Sìvali,
dầu
năm
vị,
mười
vị
hay
hơn
thế
nữa
các
thầy
vẫn
được
no
đủ.
Thí
chủ
của
tỳ-khưu
Sìvali
ở
khắp
nơi,
không
phải
chỉ
có
loài
người
mà
còn
có
cả
chư
thiên
và
thọ
thần
nữa!
Im
lặng
một
lát,
Ðức
Thế
Tôn
đứng
dậy,
nắm
tay
sa-di
Revata
rồi
nói
rằng:
-
Còn
đây
là
con
trai
của
Như
Lai,
con
trai
thù
thắng
của
Như
Lai!
Các
thầy
biết
tại
sao
mà
Như
Lai
yêu
mến
Revata
như
vậy
không?
Nếu
biết
chuyện
của
Revata
thì
trong
các
thầy,
ai
cũng
phải
yêu
mến
và
đều
muốn
đi
viếng
thăm
Revata
cả!
Này
các
thầy
tỳ-khưu!
Mặc
dầu
mới
bảy
tuổi
nhưng
Revata
đã
phải
lên
xe
hoa
với
cô
dâu.
Thế
nhưng,
khi
sắp
về
đến
nhà,
Revata
đã
tìm
cách
trốn
đi,
nhịn
đói,
nhịn
khát
vượt
qua
con
đường
dài,
đến
khu
Rừng
Ðầu
Ðà
với
quyết
chí
xuất
gia.
Ngày
hôm
sau,
Revata
đã
vội
vã
lên
đường
làm
một
cuộc
bộ
hành
xa
xăm
hơn
nữa,
đến
đây,
với
y
và
bát,
an
cư
mùa
mưa
và
khởi
tâm
đạt
cho
được
quả
vị
A-La-Hán.
Thế
rồi,
cuối
mùa
mưa,
Revata
thành
đạt
được
ý
nguyện
cùng
với
những
thắng
trí.
Hương
phòng
của
Như
Lai,
năm
trăm
chỗ
ngụ
có
tháp
nhọn,
năm
trăm
đường
đi
kinh
hành...
cùng
mọi
tiện
nghi
ăn
ở
khác,
tất
cả
đều
do
năng
lực
của
Revata!
Vậy
các
thầy
có
thấy
đấy
là
sự
kiện
hy
hữu
không?
Khi
Chư
Tăng
hoan
hỷ
cất
tiếng
"lành
thay"
thì
Chư
Thiên,
thọ
thần
khắp
núi
rừng
đồng
loạt
tán
thán
theo
làm
chấn
động
đến
cả
cõi
trời.
*
*
*
Revata
sau
này
đến
tuổi,
thọ
đại
giới.
Ba
người
chị
của
Revata,
mỗi
nàng
sinh
được
một
người
con
trai,
được
đặt
những
tên
có
nghĩa
là
"theo
chân
người
mẹ".
Rồi
họ
xuất
gia.
Các
cậu
con
trai
khi
được
bảy
tuổi,
bèn
"theo
chân
người
mẹ",
họ
cũng
xuất
gia
luôn.
Và
chính
Ðại
Ðức
Revata
nhận
họ,
làm
thầy
truyền
sa-di
giới.
Những
vị
tỳ-khưu
ni
Càlà,
Upacàlà
và
Sisupacàlà
đều
đắc
quả
A-La-Hán.
Các
con
trai
của
các
nàng
đều
có
hạnh
kiểm
tốt
đẹp.
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
dường
như
đã
chu
toàn
xong
những
bổn
phận
cao
cả
đối
với
gia
đình,
quyến
thuộc,
bằng
hữu;
nhưng
Ngài
còn
một
nỗi
bên
lòng:
ấy
là
mẹ
Ngài,
đang
còn
theo
ngoại
đạo,
vẫn
giữ
vững
đức
tin
với
Ðấng
Phạm
Thiên
của
bà,
không
gì
lay
chuyển
nổi!
Với
Nữ
đạo
sĩ
tóc
quăn
Ðược
biết
rằng
nàng
là
một
cô
gái
xinh
đẹp
tuyệt
trần,
con
của
một
thương
nhân
giàu
có
ở
Vương-Xá
thành,
phải
lòng
một
tên
cướp
đang
bị
dẫn
ra
xử
trảm
ở
pháp
trường.
Vì
thương
con,
cha
mẹ
nàng
phải
hối
lộ
một
ngàn
đồng
tiền
vàng
để
người
ta
đánh
tráo
tên
cướp,
mang
về
nhà
và
sắp
đặt
một
cuộc
hôn
nhân.
Nàng
và
tên
cướp
bắt
đầu
sống
chung
với
nhau
trong
cảnh
vinh
hoa
phú
quý.
Chẳng
được
bao
lâu,
tên
cướp
khởi
lên
ác
tâm,
muốn
giết
nàng
để
lấy
đi
tất
cả
đồ
nữ
trang
quý
giá.
Hắn
lập
mưu
nói
là
muốn
làm
một
cuộc
lễ
tạ
ơn
đến
vị
thần
bổn
mạng
hộ
trì,
đấy
là
"ngọn
núi
thiêng
của
những
tên
cướp".
Hôm
kia,
sau
khi
sắm
sửa
lễ
vật
trọng
thể,
hắn
dẫn
nàng
lên
núi
cao.
Tại
đây,
tên
cướp
lột
tất
cả
đồ
trang
sức
của
nàng
rồi
định
giết
nàng.
Hắn
đã
nói
thật
dã
tâm
của
hắn.
Chán
nản
người
chồng
ác
đức,
tương
kế
tựu
kế,
nàng
đã
xô
anh
ta
xuống
vực
sâu
tan
xác.
Ðã
thấm
thía
tình
duyên
phản
trắc,
cô
gái
quăng
đồ
nữ
trang,
xé
rách
y
phục
sang
trọng,
khoác
một
mảnh
vải
tìm
đến
một
phái
đạo
sĩ
khổ
hạnh.
Các
nữ
đạo
sĩ
hỏi
nàng:
-
Cô
muốn
xuất
gia
khổ
hạnh
bậc
gì?
-
Bậc
thượng!
Thế
là
thay
vì
cạo
tóc
bằng
những
bẹ
nứa,
người
ta
nhổ
từng
sợi
tóc
cho
nàng,
máu
chảy
thành
dòng.
Các
nữ
đạo
sĩ
lấy
bùn
đất
do
uế
trát
lên
y
áo
của
nàng,
trao
cho
một
cái
bát
bằng
đất
rồi
dạy
giáo
pháp,
tu
tập,
thiền
định...
Không
bao
lâu
sau,
cô
gái
bây
giờ
là
nữ
đạo
sĩ
-
đã
chứng
tỏ
sự
thông
minh
kỳ
đặc,
một
ý
chí
sắc
thép,
một
đầu
óc
siêu
việt,
một
lý
trí
sắc
bén
-
nên
sớm
được
đồng
đạo
nể
phục.
Người
ta
muốn
nàng
lên
đường
để
xiển
dương
giáo
pháp,
đem
chuông
trống
đi
đánh
xứ
người...
Từ
đấy,
nữ
đạo
sĩ
sống
đời
ta
bà
vô
trú,
không
bao
lâu
đã
nổi
tiếng
khắp
nơi
về
tài
hùng
biện...
Từ
quốc
độ
này
sang
quốc
độ
khác,
từ
thành
phố
này
sang
thị
trấn
nọ,
nữ
đạo
sĩ
đã
trổ
tài
vô
địch
trong
những
cuộc
tranh
luận
về
các
môn
triết
học,
tư
tưởng
trong
và
ngoài
truyền
thống
Vệ-Ðà;
giương
cao
ngọn
cờ
minh
triết
cho
một
môn
phái
khổ
hạnh,
chủ
trương
diệt
dục
bằng
lối
sống
khắc
kỷ.
Ðến
ở
đâu,
nữ
đạo
sĩ
cắm
lên
đấy
một
nhành
liễu
xanh.
Nhưng
rồi,
đến
một
lúc
nào
đó,
nhành
liễu
này
khô
đi
lại
được
thay
bằng
một
nhành
liễu
mới,
chẳng
có
ai
dám
nhổ
nhành
liễu
để
tranh
luận
với
nàng
nữa!
Hôm
nọ,
bước
chân
ta
bà
ấy
đến
Xá-Vệ,
nữ
đạo
sĩ
cắm
một
nhành
liễu
ngay
trước
cổng
thành.
Một
số
trẻ
em
tò
mò
vây
quanh...
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
sau
khi
đi
khất
thực,
trên
đường
trở
về
tịnh
xá,
thấy
đám
trẻ
và
nhành
liễu,
Ngài
dừng
chân:
-
Của
ai
đấy,
các
con?
-
Của
nữ
đạo
sĩ
tóc
quăn,
thưa
Trưởng
lão.
-
Nữ
đạo
sĩ
à?
-
Dạ
phải,
nữ
đạo
sĩ
tuy
ăn
mặc
xấu
xí,
tóc
quăn,
nhưng
đẹp
lắm.
Tôn
giả
nói:
-
Vậy
thì
các
con
hãy
nhổ
nhành
liễu
ấy
và
quăng
đi!
-
Chúng
con
sợ!
-
Không
sao,
có
ta
đây!
Khi
nữ
đạo
sĩ
hỏi,
các
con
bảo
là
đệ
tử
của
Ðức
Thế
Tôn
nhổ
đấy!
Ðám
trẻ
reo
hò,
chúng
đến,
không
phải
là
nhổ
mà
là
dẫm
đạp
lên
nhành
liễu,
đá
tung
bụi,
bẻ
vụn
nhành
liễu,
và
quăng
tơi
tả
đó
đây.
Nữ
đạo
sĩ
tóc
quăn
đi
khất
thực
trở
về
thấy
vậy
bèn
quát:
-
Ai
cả
gan
như
thế?
-
Không
phải
là
chúng
con
mà
là
Ngài
Trưởng
lão
cao
quý
của
chúng
con,
Ngài
đứng
kia
kìa!
Quay
nhìn
Trưởng
lão,
nữ
đạo
sĩ
thấy
một
Sa
môn
tướng
mạo
đoan
nghiêm,
thần
sắc
thanh
thoát
và
trầm
tĩnh.
Chợt
dưng
nàng
cảm
nghe
hơi
chột
dạ.
Nàng
chưa
biết
ai,
thấy
ai
toát
ra
được
cái
tự
chủ
và
tự
tin
như
thế.
-
Có
phải
ông
là
đ?
tử
của
Sa
môn
Cồ-Ðàm
đấy
không?
-
Vâng,
thưa
nữ
đạo
sĩ!
-
Ông
chấp
nhận
một
cuộc
tranh
luận
không
khoan
nhượng
chứ?
-
Vâng,
thưa
nữ
đạo
sĩ!
-
Ông
có
biết
rằng
chấp
nhận
tranh
luận
là
một
sự
mạo
hiểm?
Ông
mà
thất
bại
thì
danh
dự,
tiếng
tăm
của
ông
và
cả
Sa
môn
Cồ-Ðàm
sẽ
biến
thành
mây
khói?
-
Bần
đạo
biết
rõ,
thưa
nữ
đạo
sĩ!
Nhìn
xung
quanh,
nữ
đạo
sĩ
nói
với
mọi
người:
-
Vậy
thì
chiều
nay,
tại
trú
xứ
của
ông
Cồ-Ðàm,
sẽ
có
một
cuộc
tranh
luận
về
giáo
pháp.
Thành
phố
này,
ai
là
người
có
tai,
có
óc
thì
hãy
đến
đấy
mà
nghe!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
khiêm
tốn:
-
Ðúng
vậy,
chiều
nay,
tại
cổng
tịnh
xá
Kỳ
Viên,
kẻ
ngu
hèn
này
xin
được
hầu
đáp
nữ
đạo
sĩ
-
một
biện
sĩ
lỗi
lạc!
Không
mấy
chốc,
câu
chuyện
đồn
đãi
khắp
cả
thành
Xá-Vệ.
Buổi
chiều,
người
ta
vây
quanh
khu
đất
trống
trước
cổng
tịnh
xá
Kỳ
Viên.
Không
những
là
dân
chúng,
cư
sĩ
các
tôn
giáo
mà
còn
có
bóng
dáng
hàng
trăm
đạo
sĩ
của
nhiều
giáo
phái,
hàng
trăm
vị
tỳ-khưu
đồng
tham
dự
nữa.
Người
ta
bàn
tán
với
nhau:
-
Trên
đời
này,
có
ai
tranh
luận
hơn
vị
Trưởng
lão
đ?
nhất
của
Giáo
Hội
Ðức
Tôn
Sư?
-
Thật
là
con
đom
đóm
muốn
khoe
ánh
sáng
với
mặt
trời!
-
Biết
đâu
có
một
kỳ
nhân,
dị
sĩ
xuất
hiện?
-
Eo
ôi!
Ðúng
là
đem
trống
đánh
trước
cửa
nhà
sấm!
Ðám
đông
chợt
yên
lặng
khi
nữ
đạo
sĩ
tóc
quăn
xuất
hiện.
Mặc
dầu
y
áo
xộc
xệch,
vấy
bẩn
bùn
đất
nhưng
cũng
không
che
dấu
được
vẽ
đẹp
tuyệt
trần
của
nàng.
Trưởng
lão
Xá-Lợi-Phất
trang
nghiêm,
từ
tốn
từ
trong
tịnh
xá
bước
ra.
Mọi
người
hồi
hộp,
yên
lặng.
Nữ
đạo
sĩ
nói:
-
Ngài
lấy
tư
cách
cá
nhân
mà
tranh
luận
hay
lấy
tư
cách
Giáo
Hội
ông
Cồ-Ðàm
mà
tranh
luận?
-
Là
cá
nhân,
thưa
nữ
đạo
sĩ!
Tư
cách
Giáo
Hội
thuộc
về
Ðức
Tôn
Sư.
Không
ai
ở
trên
đời
này
có
thể
đại
diện
một
Ðức
Chánh
Ðẳng
Chánh
Giác
,
thưa
nữ
đạo
sĩ!
-
Thế
cũng
được.
Bây
giờ
cho
tôi
được
hỏi
đây.
Ông
Sa
môn
cần
những
câu
hỏi
có
giới
hạn
hay
không
có
giới
hạn?
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
xót
thương
cho
sự
cống
cao,
ngã
mạn
của
nàng
nên
nói:
-
Ðối
với
tôi
không
thành
vấn
đề.
Nhưng
đối
với
nữ
đạo
sĩ
thì
nên
đặt
những
câu
hỏi
sở
trường
nhất
của
nàng!
-
Tại
sao?
-
Như
vậy
sẽ
có
lợi
cho
nữ
đạo
sĩ
hơn.
Vì
tất
cả
mọi
triết
học,
tư
tưởng
trong
và
ngoài
truyền
thống
Vệ-Ðà
tôi
đều
biết
rõ,
thấy
rõ;
nhưng
về
Giáo
Pháp
của
Ðức
Tôn
Sư,
nữ
đạo
sĩ
không
hề
hay
biết
dầu
là
một
tí
chút
ở
ngoài
da!
Ðám
đông
cười
ồ!
Chỉ
mới
câu
nói
đầu
tiên
của
Trưởng
lão,
dường
như
đã
minh
định
được
sự
hơn
thua
của
cuộc
tranh
luận.
Nữ
đạo
sĩ
thấy
mình
bị
xem
thường
nên
tức
giận:
-
Thôi
đừng
nhiều
lời,
ông
Sa
môn,
hãy
nghe
ta
hỏi
đây!
Tôn
giả
ân
cần
nhắc
nhở:
-
Ðừng
nôn
nóng,
hãy
bình
tỉnh!
Hãy
đặt
những
câu
hỏi
nào
mà
nữ
đạo
sĩ
cảm
thấy
là
hóc
búa
nhất
về
Vệ-Ðà
và
không
Vệ-Ðà,
cả
về
thiên
văn,
địa
lý,
đạo
đức,
thuật
số,
luận
lý,
ngôn
ngữ...
thế
học,
đạo
học...
hoặc
về
tất
cả
những
gì
mà
đầu
óc
uyên
bác
của
nữ
đạo
sĩ
suy
nghĩ
ra!
Kinh
sách
không
ghi
lại
nội
dung
chi
tiết
của
cuộc
tranh
luận
lý
thú
này,
chỉ
nói
là
nữ
đạo
sĩ
đã
cật
vấn
Trưởng
lão
một
ngàn
câu
hỏi.
Thật
là
kinh
khiếp!
Từng
câu
hỏi
một,
Trưởng
lão
đã
như
một
nhà
thông
thái
giải
thích,
phân
tích,
đi
từ
ngoài
vào
trong,
đi
từ
trong
ra
ngoài,
không
những
trả
lời
rất
đầy
đủ
những
câu
hỏi
của
nàng
mà
còn
làm
cho
nàng
thấy
rõ
kiến
thức
nông
cạn,
hời
hợt
của
mình
nữa.
Nữ
đạo
sĩ
say
mê
lắng
nghe.
Tất
cả
những
ngạo
khí
thảy
đều
tiêu
tan.
Mọi
sự
khôn
ngoan,
sắc
bén
của
nàng
đều
thui
chột.
Mọi
kiến
thức
uyên
bác
của
nàng
rõ
là
trò
trẻ
con
đối
với
Trưởng
lão.
Tôn
giả
nói:
-
Còn
câu
hỏi
nào
nữa
không,
thưa
nữ
đạo
sĩ?
Nữ
đạo
sĩ
im
lặng.
Tôn
giả
cất
lời
dịu
dàng:
-
Một
ngàn
câu
hỏi
nữ
đạo
sĩ
đã
hỏi
tôi,
vậy
bây
giờ
tôi
hỏi
nàng
nhé,
một
câu
duy
nhất
thôi!
-
Vâng,
thưa
Trưởng
lão.
-
Thưa
nữ
đạo
sĩ!
Nữ
đạo
sĩ
hỏi
huyên
thuyên
trên
trời
dưới
đất.
Bây
giờ
là
câu
hỏi
của
tôi:
Gì
là
"Một"?
-
nói
đi,
nữ
đạo
sĩ
-
một
là
gì
nào?
Câu
hỏi
của
Tôn
giả
thật
là
lạ
lùng
không
ai
ngờ
được.
Ðại
chúng
sau
một
hồi
lặng
ngắt,
chợt
cười
reo,
thú
vị.
Nữ
đạo
sĩ
bàng
hoàng.
Thời
gian
trôi
qua.
Nữ
đạo
sĩ
toát
mồ
hôi
mà
tượng
đá
cũng
toát
mồ
hôi!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
chậm
rãi
thả
từng
tiếng:
-
"Một"
mà
nữ
đạo
sĩ
cũng
không
biết
thì
đòi
biết
cái
gì?
"Một"
của
số
học,
lượng
học,
hay
triết
học
thì
cũng
là
cái
"Một"
ấy
thôi!
Mà
quả
thật,
cái
"Một"
ấy
là
ra
sao,
thưa
nữ
đạo
sĩ?
-
Tôi
không
trả
lời
được.
Tôi
đã
thua
cuộc.
-
Vậy
là
đúng,
vậy
là
chính
xác,
vậy
là
chân
thực.
Cho
dẫu
nàng
có
trả
lời
được,
biết
được
thì
cũng
chẳng
đi
đến
đâu,
chẳng
đưa
đến
chấm
dứt
khổ
đau
và
phiền
não!
-
Nhưng
tôi
muốn
biết
"Một"
ấy
là
gì?
-
Nếu
nữ
đạo
sĩ
từ
bỏ
giáo
pháp
ấy
-
cái
giáo
pháp
rỗng
không
và
phù
phiếm
của
nàng
-
xuất
gia
dưới
chân
của
Ðức
Tôn
Sư,
rồi
nàng
sẽ
biết
cái
"Một"
ấy
là
gì.
-
Vậy
hãy
cho
tôi
gia
nhập
Ni
chúng!
Thế
là
cuộc
tranh
luận
chấm
dứt.
Khi
được
biết
rằng
người
luận
thắng
nàng
là
Ðại
Ðệ
Tử
của
Ðức
Phật,
Bậc
Tướng
Quân
Chánh
Pháp,
vị
Thượng
Thủ
của
Giáo
Hội,
nữ
đạo
sĩ
không
thấy
xấu
hổ
nữa.
Sau
đó,
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
cho
nhắn
tin
đến
Giáo
Hội
Tỳ-khưu
Ni,
và
nữ
đạo
sĩ
tóc
quăn
được
xuất
gia
với
Trưởng
lão
Ni
Gotamì,
có
tên
là
tỳ-khưu
ni
Kundalakesì.
Nàng
nhận
được
đề
mục
thiền
quán
từ
Ðức
Tôn
Sư
và
chỉ
sau
ba
ngày,
nàng
đắc
quả
A-La-Hán.
Tri
ân
xiết
bao,
tỳ-khưu
ni
Kundalakesì
tìm
đến
đảnh
lễ
dưới
chân
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất,
rồi
nói:
-
Nếu
hôm
ấy,
con
biết
được
trên
đời
có
một
Giáo
Hội
minh
triết
với
những
con
người
minh
triết
như
thế
này
thì
con
sẽ
không
dám
đặt
ra
một
câu
hỏi
nào
cả!
Tôn
giả
Xá-Lợi-Phất
mỉm
cười:
-
Này
Kundalakesì!
"Một"
là
gì
nào?
--- o0o ---
Mục
lục - [01] -
[02]
- [03] - [04]
- [05]
[06]
- [07]
- [08] - [09]
- [10] - [11]
--- o0o ---
| Mục lục Tác giả |
Tủ sách Phật Học
|
Chân thành
cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-04-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục